Lối Cũ Chẳng Sao Quên

Ngôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lực
 

 


MỤC LỤC

  1. Lời tâm sự của Bích Huyền
  2. Lời giới thiệu của Quỳnh Lưu
  3. Những ngày thơ ấu
  4. Đường ra Vĩnh Phú
  5. Cầu bao nhiêu nhịp
  6. Lối cũ chẳng sao quên
  7. Đà Lạt ơi, bao giờ tái ngộ
  8. Mùa Xuân cho con
  9. Tà áo dài, nỗi buồn không nguôi
  10. Một thoáng hương xưa, Hà Nội đó
  11. Anh ơi, anh cứ đợi
  12. Chuyện từ cuộc chiến 20 năm cũ

Lời tâm sự

Trong những năm qua đã nhiều lần tôi có dịp được mời đến một số trường Đại học tại Miền Nam California để nói về quãng đời của tôi sau tháng 4 năm 1975, khi người Cộng sản cưỡng chiếm Miền Nam, qua cuốn sách “Lối Cũ Chẳng Sao Quên”.

Lần nói chuyện gần nhất là khoảng tháng 9 năm 1998 tại trường Đại học Fullerton, Khoa sử học do bà Giáo sư Wendy Elliot phụ trách. Họ đang có đề tài về chiến tranh Việt Nam. Quỳnh Lưu đã giúp tôi thông dịch trong buổi nói chuyện cảm động này. Giáo sư và Sinh viên tỏ ra rất thích thú và xúc động. Họ tỏ ý rất tiếc là không có bản “Lối Cũ Chẳng Sao Quên” bằng Anh ngữ.

Sách báo… nói chung là tài liệu của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam bằng Anh ngữ đã xuất hiện rất nhiều trong các thư viện trên thế giới. Lẽ dĩ nhiên chỉ là những tài liệu bóp méo những dữ kiện lịch sử, thậm chí bôi nhọ người quốc gia chúng ta.

Là một trong những nạn nhân trực tiếp của Cộng sản Việt Nam sau 1975, tôi thiết nghĩ mình có bổn phận nói lên tiếng kêu than uất nghẹn, cũng như ghi lại trung thực một khía cạnh nào đó của tôi, cũng giống như biết bao nhiêu nạn nhân thuộc gia đình Cựu Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa khác. Chúng tôi đã phải khổ sở chịu đựng cả về vật chất lẫn tinh thần khi bị người Cộng sản liệt vào loại vợ con “ngụy quân ngụy quyền” để phân biệt đối xử.

Có được bản Anh ngữ “Lối Cũ Chẳng Sao Quên” này, tôi xin được ghi nhận nơi đây lời cảm ơn đến Quỳnh Lưu, một Kỹ sư tốt nghiệp Đại học Mỹ, người bạn nhỏ bé đã khuyến khích tôi thực hiện; cảm ơn Thi sĩ Lâm Thùy Giang đã giúp đánh máy bản tiếng Việt, và nhiều người khác đã âm thầm giúp đỡ tôi; đặc biệt cảm ơn em Trần Thị Quỳnh Diễm, một Luật gia trẻ tuổi đã bỏ ra rất nhiều công sức dịch sang Anh ngữ để cho tôi có được quyển sách này.

Chân thành cảm tạ
Bích Huyền

o O o

Lối Cũ Chẳng Sao Quên

Đã có rất nhiều sách báo viết về trận chiến Việt Nam, tuy nhiên nếu ta muốn đọc tài liệu về số phận của những người phụ nữ Việt Nam có chồng bị bắt đi tù cải tạo thì thật là khó tìm. Lại càng khó tìm hơn nữa là sách bàn luận tới nỗi khó khăn của những người vợ đó. “Lối Cũ Chẳng Sao Quên” của Bích Huyền là một trong những cuốn hiếm hoi này. Đây là một tác phẩm mà Giáo sư Phạm Cao Dương thuộc Đại học Irvine đã từng trích một số bài trong đó để dùng làm tài liệu giảng dạy.

Lần đầu tiên sau khi tôi đọc quyển “Lối Cũ Chẳng Sao Quên”, tôi đã thấy thật bùi ngùi, thương cảm; mấy câu thơ Chinh Phụ Ngâm mà đã được tác giả ghi lại cứ luẩn quẩn mãi trong đầu tôi:

Cùng trông mà lại cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một mầu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ?

Được biết tác giả từ ngày tôi còn bé, đi học tại trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng, ngắm nhìn cô giáo Nga trong tà áo dài mầu tím, che cây dù tím, kẻ mắt cũng mầu tím… ai ngờ cuộc đời có thể phũ phàng, dập vùi một người đến thế. Càng nghĩ xa hơn, tôi lại nhận thức rằng tại Việt Nam, đã có hàng mấy trăm ngàn người phụ nữ khác, cũng đã phải chịu chung một số phận đau thương như vậy dưới chế độ phi nhân của Cộng sản Việt Nam.

“Lối Cũ Chẳng Sao Quên” không phải chỉ là một quyển truyện kể lại cảnh đi thăm nuôi chồng của một người vợ. Đối với tôi, đây còn là một tài liệu lịch sử, ghi lại một vết đen ô nhục trong trang sử Việt mà hàng trăm ngàn năm sau, người Việt Nam nói chung và người phụ nữ Việt nói riêng phải nhìn lại mà chiêm ngưỡng và bái phục sự hy sinh, chịu đựng, kiên trì của thế hệ đi trước.

Ước mong rằng với bản dịch tiếng Anh của tác phẩm “Lối Cũ Chẳng Sao Quên”, người trẻ Việt Nam sẽ có được một cái nhìn trung thực về chế độ tàn ác của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam; và người phụ nữ Việt Nam, sinh trưởng tại quốc ngoại sẽ cảm thấy hãnh diện về những đức tính trung kiên của người phụ nữ Việt.

Quỳnh Lưu

 

Những ngày thơ ấu

Quê hương tôi xanh dòng sông biếc. Dòng sông ôm ấp lũy tre xanh. Dòng sông len lỏi trong nương dâu, nương sắn. Dòng sông xuôi nước lững lờ như cuộc sống hiền hòa êm ả của quê tôi.

Cây đa cổ thụ bên kia sông với rễ cây buông thõng lòng thòng, với một miếu thờ nhang khói linh thiêng. Không hiểu tại sao mỗi mùa mỗi loại trái cây. Nho nhỏ thôi nhưng hình dáng và sắc màu khi trái chín thì đúng là mít, mơ, ổi, mận…Bẻ ra bên trong toàn là ruột quả đa.

Cánh đồng lúa quê tôi mênh mông như biển sóng rập rờn cánh cò trắng lả lướt nhịp nhàng. Tháng mười mùa gặt, đàn chim gáy óng mượt béo nục béo nà chăm chỉ nhặt lượm thóc rơi.

Trong bóng lá cây, thấp thoáng những ngôi nhà rải rác bình yên. Vào bên trong là khu phố buôn bán sầm uất. Những con đường nhỏ hẹp tráng nhựa, bờ hè lát từng viên gạch đỏ hồng. Hai hàng cây hai bên đường như chụm đầu vào nhau rì rầm nói chuyện đùa vui với gió. Mùa thu lá úa rụng vàng xao xác lối đi.

Ngôi nhà của gia đình tôi, từ cổng đi vào là một lối đi trải những viên sỏi bé li ti. Một bên là hàng thông cao vút, một bên là vườn tược tốt tươi. Ngôi nhà được xây dựng thành ba dãy theo ba phương hướng. Nhà hướng đông, nơi có cối chầy giã gạo và kho than củi ở gian trong. Gian giữa mắc nhiều võng nằm chơi vào những trưa mùa hè, gian ngoài cùng là phòng của ông anh thứ hai thích cuộc sống biệt lập.

Dãy nhà hướng Tây, một gian chứa thóc, một gian dành cho bà con họ hàng đến chơi ở lại và một gian của người làm. Tôi còn nhớ những tối mùa Đông, anh em họ hàng quây quần xúm xít đánh bài. Trẻ con như tôi ngồi xem với rổ khoai nóng mới luộc bốc khói. Muốn biết khoai bở hay khoai trong chỉ việc soi trước ngọn đèn.

Dãy nhà hướng Nam đẹp nhất là nơi bố mẹ, và anh chị em tôi ở. Phòng nào cũng có hai cửa sổ nhìn ra sân trước, vườn sau. Những cây mai, cây đào trồng trước cửa sổ, dưới mỗi bồn vòng tròn có từng viên gạch xếp nghiêng nghiêng. Trong bồn, hoa mười giờ tím đỏ như một mâm xôi chan hòa ánh nắng. Mùa xuân mai, đào nở hoa phơi phới.

Tiếng chim véo von đánh thức tôi buổi sáng. Tiêng cây lá rì rào ru tôi trong giấc mộng thần tiên.

Cũng tại khung cửa sổ này, tôi và chị tôi thường ngồi bên song cửa như hai chú chó con nhìn ra xem người làm đập thóc phơi lúa ngoài sân. Các chị thôn nữ má đỏ hồng hồng xinh đẹp như những cô gái in trên nắp hộp bánh Tây. Còn các anh lực điền duyên dáng hát hò bằng những câu ca dao mà mẹ tôi thường hát ru em. Sân gạch vuông rộng lớn đó, những đêm trăng sáng mùa hè, người lớn trải chiếu ngồi chơi, trẻ con nô đùa chạy nhảy. Bầu trời cao lấp lánh đẹp như những câu chuyện cổ tích đầy huyền bí xa xăm, đầy thần tiên ước mộng. Sao Thần Nông cho vụ mùa no ấm, sao Bắc Đẩu dẫn đường, dòng sông Ngân Hà mang màu tươi mát…Tâm hồn thơ trẻ, chẳng có ước mơ chi nhưng vẫn nhìn lên chờ ánh sao băng để cùng khấn nguyện: “Cầu trời”

Một bức tường trồng hoa ngăn cách sân với khu vườn chữ nhật. Sát bờ tường, hàng cau chạy dài, thẳng tắp. Thân cau mảnh dẻ, cao và thẳng. Khu vườn đó, ổi, na, mít, mận, nhãn…chao ơi, chi chít quả trên cành. Khu vườn đó, đã một lần tôi bị anh tôi phạt trói chân vào thân cây ổi bởi tội hay leo trèo nghịch ngợm. Khu vườn đó, chị em tôi đã làm đám ma chôn con chim nhỏ bị chú mèo rượt theo cắn chết vào một buổi sáng mùa thu.

Rồi bỗng một ngày đê vỡ, nước tràn ngập mênh mông bao phủ khắp thôn làng. Đó là nạn lụt năm 1945. Ngôi nhà của gia đình tôi chìm ngập nước. Đi thuyền, nghịch nước. Đó là trò chơi thích thú nhất. Có khi chẳng biết chèo, con thuyền nhỏ chòng chành rồi cứ thế trôi đi, xoay vòng. Những chiếc miệng con thi nhau la hét cầu cứu. Nhớ nhất là những lần được đi thuyền vào thăm bà ngoại. Ngồi trên thuyền, ăn đậu lạc luộc vừa ngọt vừa bùi. Vỏ lạc thả xuống nước, trôi bồng bềnh như những chiếc thuyền con…

Lụt lội qua rồi nối tiếp theo nạn đói năm Ất Dậu. Đoàn người ăn mày lũ lượt xách bị cầm bát đi ăn xin. Thân hình gầy guộc, áo rách tả tơi, má hóp, mắt sâu, bước chân không vững. Chiếc gậy chống đỡ như muốn đổ theo. Mẹ tôi cùng người làm thổi những nồi cơm to tướng, nắm từng nắm một, mỗi sáng phân phát, mà không đủ. Hình ảnh người ăn mày bần thần như một cái xác không hồn, lần tay bóc vỏ thân cây để ăn. Hình ảnh xác chết vì đói khát la liệt ngoài đường in mãi trong trí óc tôi. Ngày đó, tôi có ngờ đâu quên hương miền Bắc của tôi bắt đầu đi vào cuộc sống triền miên đau khổ. Bởi vì đâu?

Sau trận lụt tràn ngập làng quê, cha mẹ tôi quyết định xây lại ngôi nhà hướng Nam trên một nền cao hơn hai mét và đúng theo kiểu nhà Tây. Chính giữa nóc nhà có một con gà bằng sành tráng men màu xanh biêng biếc. Nhìn xa xa cổ gà vươn cao như cất tiếng gáy giữa không trung. Hai bên mặt tiền là những bậc tam cấp dẫn lên hiên. Trên đó là một mô hình sơn thủy với núi non, suối nước, có cả những ông tiên bé tí bằng sứ ngồi câu. Dọc theo lan can là những chậu hoa, cây quý. Khi hoa quỳnh sắp nở, trong nhà rộn rịp như một ngày hội. Mẹ tôi làm bánh ngọt, cha tôi pha trà mạn sen thơm. Khách đến nhà cùng nhau đối ẩm, ngâm thơ xem hoa quỳnh nở dưới trăng. Những bông hoa quỳnh trắng muốt tỏa hương thơm ngát, trang nhã và tinh khiết làm sao !

Thời thơ ấu của tôi gắn liền với ngôi nhà bề thế, cao nhất một vùng. Đứng ở ban công đầu nhà có thể nhìn thấy cả đường đi ngoài hàng dậu. Mỗi lần nghe tiếng máy ô tô của chú bán kem, với tiếng trẻ con reo “Xe bình bịch tới” là chúng tôi ù té chạy đến mua, thưởng thức vị ngọt mát lạnh của cây kem.

Tôi nhìn thấy cả trường học bên kia bờ ao và nghe tiếng roi mây đen đét đập xuống bàn. Nơi ban công này, mẹ tôi thường ngồi hong tóc. Chị em tôi tì tay trên lan can nhìn xuống ngắm đàn gà ríu rít kiếm ăn. Chị gà mái mơ với chiếc áo màu xám ngả sang xanh nhạt, lốm đốm hoa trắng duyên dáng xinh đẹp nhất. Chị hay nhường ăn cho đàn con bé bỏng. Những chú gà con như cục bông màu vàng biết chạy, chân ngắn tí xíu và đôi mắt long lanh như những giọt sương trong vắt. Lanh chanh lít chít giành ăn với nhau, có con bị té lăn cù…

Anh cả tôi học ở Hà Hội. Mùa hè thường rủ bạn bè về. Các anh dạy tôi hát “Làng tôi xanh bóng tre, từng lắng tiếng chuông ngân, tiếng chuông nhà thờ rung..” Các chị dạy đan những chiếc áo len bé tí xíu. Câu cá, tắm ao, đàn hát…rộn rã suốt mùa hè.

Mùa đông tới, trong phòng khách ấm cúng, mỗi buổi tối, tiếng bà ngoại êm ái như ru, kể chuyện cổ tích. Biết bao hình ảnh thần tiên, biết bao tấm lòng nhân ái theo tôi vào giấc ngủ, thấm sâu vào tâm hồn trong trắng thơ ngây. Rồi từ đó mãi mãi là điểm sáng dẫn bước tôi đi trên khắp nẻo cuộc đời.

Chiến tranh gieo rắc nơi biên thùy xa lắc. Ý niệm về chiến tranh rất mơ hồ qua những chiếc khăn tay mẹ thêu hoa hồng hoa cúc cùng Hội Phụ Nữ gởi ra tiền tuyến.

Rồi chiến sự bùng lên gần sát quê tôi. Hà Nội tản cư về. Quê tôi cũng chẳng bình yên, lục tục kéo nhau đi. Tiếng súng nổ nhiều nhất vào ban đêm. Hình ảnh đầu tiên của chiến tranh đến với tôi là anh Huệ, một gia nhân trong nhà, bị Tây bắn chết và đàn chó bị lùa đi. Chúng líu ríu đi trước những báng súng. Người ta lùng sục bắt chúng mỗi ngày. Vậy mà con Quýt nhà tôi bao giờ cũng trốn được. Nó như hiểu biết, sống một cách lặng lẽ. Rồi cũng có một lần vẫn bị tìm ra và bị kéo đi, nước mắt con vật khôn ngoan chảy ròng ròng. Cả nhà nhìn theo không ngăn được giọt lệ.

Bỗng có một ngày, bom đạn tơi bời đổ xuống quê tôi. Nhà nào cũng đào hầm, đào hố. Nghe tiếng máy bay từ xa là mọi người lo ẩn núp. Hoang tàn, đổ nát, “vườn không nhà trống tan hoang.”

Gia đình tôi theo dòng người chạy loạn. Mỗi lần rời nhà ra đi là một lần bịn rịn. Bà tôi già quá, em tôi đau ốm quá, làm sao chạy được đây?

Hoàng hôn buông xuống âm u. Một vài cụm mây đỏ quạch như máu phía chân trời đe dọa. Trên bờ đê lố nhố bóng người bồng bế, gánh gồng…Hình ảnh đó như một bức tranh với nhiều màu sắc đen tối đang di động.

“Tôi đứng bên này sông
Bên kia vùng địch đóng
Làng tôi đấy xạm đen màu tiết đọng
Tre, cau gầy, tóc rũ ướt mưa sương
Màu trắng vôi, lồm lộp mấy khung tường
Nếp đình xưa
Người hỡi! Đau gì không ?”

(NHÀ TÔI: thơ Yên Thao)

Rồi từ đó tôi không về quê nữa. Ngôi nhà tôi cao nhất trong vùng nên trở thành căn cứ trấn đóng của tiểu đoàn ông Tôn Thất Đính. Chiến tranh mỗi ngày một tàn khốc, phá nát quê hương. Tất cả trở thành bình địa trong đó có ngôi nhà yêu dấu của tôi ở phố huyện Duyên Hà. “Ôi, quê hương đắm chìm trong khói súng. Có bao giờ sông lại phút thân yêu?”

  

Đường ra Vĩnh Phú

Ngồi trong toa của con tàu Thống Nhất, tôi vẫn chưa hoàn hồn. Tay khư khư ôm chặt túi xách trong lòng, tôi nhìn theo Nụ đang len lỏi tìm lối ra giữa những người đang đứng lố nhố tranh giành nhau xếp đồ đạc. Gần tới cửa, Nụ còn ngoảnh lại nhìn tôi, mắt đỏ hoe. Nước mắt tôi làm nhòa đi hình ảnh Nụ trong giây phút ngắn chia tay. Nụ như bị xô xuống khỏi tàu.

Xa xa, sân ga Bình Triệu dưới những ngọn đèn không đủ sáng, cảnh tượng vô cùng hỗn độn. Người đi, kẻ lại, người mang, kẻ vác, xô đẩy, chen lấn nhau, la hét í ới trên một khoảng đất gồ ghề, tăm tối. Tôi cũng vừa từ đám đông đó lên đây. Bọn cán bộ được lên tàu trước từ ga Phạm Ngũ Lão, trên những toa riêng hoặc những toa có giường nằm.

“Thật may, không có Nụ đi tiễn thì làm sao mình còn đủ hành lý!” Lần đầu tiên tôi thấy Nụ khỏe quá! Hai tay hai túi xách nặng, cồng kềnh, chen đám đông phăng phăng mở lối cho tôi lên tàu… Bọn cướp trà trộn giựt xách tay, rạch ví, móc túi. Tiếng la hét, chửi thề. Tiếng gọi nhau, tiếng khóc… tạo thành một âm thanh hỗn loạn. Thần kinh tôi như muốn đứt ra. Hai chị em chỉ kịp bám lấy song sắt của toa tàu đã như có người đẩy lên rồi. “Kìa! Nó giựt đồng hồ của tôi!” “Trời ơi! Ví của tôi mất rồi!” Mặc kệ. Mạnh ai nấy chen. Chân tôi bị dẫm lên đau điếng. Áo quần tả tơi, xốc xếch, đầu tóc rối bời. Giờ này tôi ngồi trên tàu, dưới kia cảnh tượng vẫn đang tiếp diễn…

Tiếng còi hú vang báo hiệu sắp đến giờ khởi hành. Tiếng còi dài văng vẳng trong đêm tối. Ngày xưa còn bé, tôi đã từng được học những bài văn tả cảnh sân ga. Niềm vui sum họp, nỗi buồn chia ly, tiếng còi tàu lanh lảnh âm vang trong lòng tùy theo tâm trạng mỗi người.

Lòng tôi hôm nay, tiếng còi nghe ghê rợn quá! Như tiếng rú, tiếng thét đe dọa con người thất thế: một thân một mình đi thăm nuôi chồng “học tập cải tạo” tại một nơi rừng sâu, nước độc. Không có một bóng người đứng trên thềm ga đưa tiễn, không có một ngọn đèn vàng lẻ bóng hắt hiu, chỉ có hàng ngàn con người lam lũ, hối hả, vội vàng trên sân ga giành giựt từng miếng cơm thừa, từng manh áo rách…

“Giấy tờ đâu? Mở hành lý ra!” Giọng hách dịch của tên soát vé. Những khuôn mặt lạnh lùng của toán công an kinh tế. Một tên nghênh ngang cầm đèn pin, bất kể rọi vào cả mắt hành khách, một tên cầm chiếc cây ngắn, xấc xược thọc thọc vào hành lý.

“Giáo viên, về Bắc nghỉ hè? A, đi thăm chồng «học tập cải tạo». Thăm nuôi tù thì nói mẹ ra đi. Học tập, học tập cái nỗi gì với cái bọn ngụy ác ôn đó. Thôi, khỏi xét.”

Tôi cố nén tức giận, tủi hờn, mừng rỡ nhận lại tờ giấy phép. Chạy chọt hàng bao nhiêu cửa, chờ đợi hàng bao nhiêu ngày, tôi mới có được mảnh giấy đen thui này đây.

Họ di chuyển xuống hàng ghế dưới, tiếp tục hạch sách, lục lọi, và hành khách tiếp tục van xin, năn nỉ. Chục thước vải. Dăm ba gói bột ngọt. Rổ rá nhựa, xô xách nước… Có người khóc ngất khi bị tịch thu. Nồi cơm độn mì, độn khoai tây mong vào tiền lời nhỏ nhoi đã mất rồi.

Tiếng máy chạy xình xịch, tiếng còi tàu rú lên từng hồi như thúc giục, như đồng lõa với những việc làm sai trái trên con tàu mang tên Thống Nhất Bắc Nam.

Bên ngoài trời tối, không một ánh sao. Sương khuya lạnh buốt. Vài con đom đóm lập lòe. Chung quanh tôi, mọi người đều đã nằm ngủ la liệt. Người trải miếng ni-lông dưới chân ghế, người nằm ngả nghiêng trên đồ đạc, ngổn ngang chật cả lối đi. Võng mắc chi chít. Tiếng ngáy, tiếng thở mệt nhọc vang lên. Tôi mệt mỏi tựa đầu vào thành ghế gỗ. Có lẽ chỉ còn một mình tôi thao thức nên thấy đường dài. Nhớ mẹ, nhớ con. Thế là tôi đã phải xa nhà, xa những người thân yêu, vượt hàng mấy ngàn cây số, đi đến một nơi xa lạ. Làm sao lòng tránh khỏi lo âu? “Thân gái dậm trường”, lời nói người xưa thật đúng tâm trạng của tôi bây giờ

Cũng trên quãng đường này, trong toa xe lửa của một thời xa lắc, ánh mắt long lanh, giọng cười ròn rã reo vui suốt cuộc hành trình. Trại hè Nha Trang. Trại hè Thống Nhất Huế. Trại hè sinh viên Huế-Sàigòn- Đà Lạt. Mỗi một mùa hè là một mùa tưng bừng hứa hẹn. Còn đâu nữa tiếng cười rúc rích, tinh nghịch của các bạn tôi trong đêm không ngủ? Các bạn tôi, giờ phiêu bạt nơi đâu? Phạm Hữu Lộc, Bùi Thức Phước, Nguyễn Long Hải, Duy Trác…trong những trại tập trung cải tạo. Âu Oanh, Hoàng Oanh, Kim Oanh, Ngọc Diệp…bán đứng buôn chạy quần áo cũ, thuốc tây. Hồng Thủy, Hồng Hảo, Ngọc Tâm, Hương Kiều Loan… ngàn trùng cách biệt.

Tôi cố quên đi những gương mặt đang say men chiến thắng Nguyễn Đắc Xuân, Cao thị Quế Hương, Kim Tuyến. Tôi ngậm ngùi thương tiếc Lê Hữu Bôi, bị thảm sát trong biến cố Tết Mậu thân tại Huế. Bốn năm quay cuồng, vật lộn với cuộc sống mới, có bao giờ được vài phút suy tư?

Qua mỗi lần tàu ghé một sân ga, bất kể ngày hay đêm, hàng hóa rỡ xuống, chất lên nhanh chóng, gọn nhẹ. Bọn chỉ huy đoàn tàu kết hợp cùng bọn công an kinh tế buôn bán thì còn sợ gì ai xét. Những giỏ xoài Nha Trang của vợ chồng chú bộ đội ngồi trước mặt tôi đã biến mất, Những giỏ xoài treo toòng teng trên đầu, những giỏ xoài la liệt dưới sàn tàu đều trống trơn. Hành khách buôn dọc đường. Xã hội Chủ Nghĩa cấm buôn bán cá thể mà hầu như cả nước đều buôn. Cán bộ, công nhân viên mua được nửa ký đường, lon sữa, mười gam bột ngọt… mang ra chợ bán kiếm chút tiền bù đắp vào đồng lương ít ỏi. Cũng nhờ đó mà tôi mua được những thực phẩm thăm nuôi chồng.Tôi thở dài ngao ngán cho kiếp sống đói nghèo.

Tàu càng rời xa miền nam, làng mạc càng hiu hắt. Bốn năm tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội là đây? Đồng ruộng khô cằn, xóm làng xơ xác. Con tàu đưa tôi vượt qua vĩ tuyến 17, tới miền Trung. “Ôi quê hương xứ dân gầy” của nhạc sĩ Phạm Duy. Dân không chân lấm tay bùn – vì đồng ruộng bỏ hoang- mà sao dân đen đủi, gương mặt ngơ ngơ ngẩn ngẩn, đứng trước những thau nước chờ khách trên tàu mua rửa mặt, rửa chân.

Một bà cụ lưng còng xuống, manh áo cũ vá không đủ che thân, xách ấm nước bán rong. Đường tàu mỗi lúc một xấu, nhất là Thanh Hóa, con tàu nghiêng ngả. Đồ đạc rơi đổ cả vào người.

Làng quê miền Bắc kia sao? Tôi ngờ mình nằm mơ. Bởi hiện thực quá phũ phàng.

“Việt Nam đất nước ta ơi,
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn… “

Miền Bắc hai mươi năm xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân dân đi vào con đường làm ăn tập thể. Đồng ruộng xóa mờ ranh giới, bao la bát ngát thẳng cánh cò bay, chỉ là hình ảnh tưởng tượng của cán bộ vẽ ra, khi tuyên truyền với dân miền Nam. Đồng khô, nắng cháy. Xa xa xóm làng hoang vắng. Quán nước bên đường che bằng một mái tranh cũ nát, chiếc chõng tre lỏng chỏng một vài món quà lặt vặt: viên kẹo bột vàng, trái chuối thâm đen. Điếu cầy tre, ấm nước, ly trà cũ bẩn…Mỗi lần tàu ngừng, hành khách tranh nhau mua từng bát cơm khô cứng lèo tèo một ít rau xào.

Tôi đến Hà Nội sau ba ngày, ba đêm trên tàu như một người bị tra tấn. Rã rời. Mệt mỏi. Hà Nội hiện ra trong mắt tôi với tất cả sự nghèo nàn, lạc hậu. Đèn đường vàng vọt. Trong nhà, ánh điện lù mù nhưng tôi vẫn nhìn thấy nhà nhà ngồi quanh mâm cơm để dưới đất. Đó là hình ảnh đầu tiên về Hà Nội.

Nhà anh chị tôi ở tầng thứ tư của một khu nhà tập thể vùng Kim Liên. Chỉ là một phòng nhỏ 20 mét vuông. Độc nhất một cái giường cũ mọt dành cho bố mẹ, đứa con út còn bé. Hai đứa con lớn học đại học nằm dưới đất. Kệ sách vở đụng trần nhà. Dưới gầm giường lỉnh kỉnh bát chén, nồi niêu, xô nước. Gia đình anh chị tôi điển hình cho giới trí thức Hà Nội: chồng, cán bộ nghiên cứu khoa học, vợ bác sĩ. Tôi rùng mình lo sợ.

Hà Nội với những con đường nhỏ hẹp, đầy ổ gà, bụi bậm. Hà Nội với những con người nhâng nhâng, nháo nháo, chửi thề nói tục. Không phải một thủ đô văn minh lịch sự như theo lời những cái máy nói đã mạt sát Sài Gòn, ca tụng Hà Nội, mà trong những buổi học tập chính trị ròng rã qua năm tháng, chúng tôi đã phải nghe. Hà Nội trong ký ức tôi, trong thơ, trong nhạc…chỉ là hư ảo.

Lên ga Bình Triệu, xuống ga Hàng Cỏ: kinh hoàng. Tiếp tục cuộc hành trình, tôi đáp tàu đi Vĩnh Phú – Ga nhỏ, người đông. Mùi hôi thối dưới đất, mùi mồ hôi nồng nặc trong ánh nắng hè gay gắt. Tôi muốn nôn ọe. Lại bị hạch sách, nạt nộ khi làm thủ tục để được lên tàu. Lại chen lấn, xô đẩy. Tôi chạy mãi tìm cửa lên tàu. Toa nào cũng chật cứng. Cuối cùng chỉ còn dành được một chỗ đứng ở cuối nơi toa tàu nối nhau. Khi con tàu ra khỏi thành phố, một số thanh niên leo lên nóc, tôi mới có một chỗ để ngồi bó gối.

“Ban nãy bọn tao leo lên toa chở lợn, gà. Bị đuổi xuống.”

“Xã hội này làm súc vật sướng hơn.”

Gió thổi mát lạnh. Trời vần vũ cơn mưa. Cứ ngồi như thế cho đến tối hay sao? Thế rồi sức chịu đựng của tôi vẫn vượt qua những trận mưa trời làm ướt sũng toàn thân, những trận mưa than từ ống khói tàu nhả xuống. Cũng may là than đá, nếu không biết bao nhiêu là hành khách kém may mắn không được ngồi trong toa như tôi sẽ bị nhuộm đen như thế nào?

Con tàu đi qua những cánh rừng cọ xác xơ, những đồi chè cằn cỗi dưới cơn nắng cháy.

Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi!
Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca…

Tôi không hiểu sao Tố Hữu lại có thể làm được những câu thơ với những hình ảnh tươi đẹp thế?

Ga Ấm Thượng là trạm cuối cùng, tôi xuống. Nơi đây chỉ là một túp lều tranh vách nát giữa vùng đất đìu hiu của miền thượng du Bắc Việt. Trời chập choạng tối. Ánh đèn leo lắt run rẩy như muốn tắt làm tăng thêm vẻ hoang vu.

Sau một ngày dài ngồi bó gối trên tàu, tôi muốn ngả lưng trên chiếc giường tre có trải manh chiếu nát. Những con rệp lâu ngày bị đói rủ nhau ra tung hoành làm tôi phải bật dậy suốt đêm. Sáng sớm đã có tiếng xì xầm ở bên ngoài. Dân quanh vùng lén mang muối, gà, gạo…bán cho những người thăm nuôi tù. Họ giành nhau để được tên cán bộ nhà ga phân phối khuân vác từng thùng lương thực xuống thuyền để lấy tiền công.

Sang đò ngang lại chuyển đò dọc. Tiền khuân vác, tiền chuyên chở, bao nhiêu cũng phải trả.

Con thuyền cũ chòng chành vì nặng hành lý, khách trên thuyền chỉ có khoảng năm người. Thuyền không có mái, hơi nóng từ trên trời giội xuống, từ dưới nước bốc lên. Tôi như muốn ngất lịm đi vì say nắng. Đây là con sông Lô trong nhạc Văn Cao. Không có tiếng hò, tiếng hát trên sông. Chỉ có tiếng mái chèo đập nước, tiếng sóng vỗ ì oạp vào mạn thuyền. Hoàn toàn im lặng. Mặt trời đứng bóng, thuyền cặp bến Đò Ngọc.

Trái với tên, bến đò toàn sỏi đá lởm chởm. Từ bờ sông lên tới đường đi, chúng tôi phải trèo lên từng phiến đá sắc cạnh. Phụ nhau kéo đồ đạc lên, ngồi chờ xe trâu tới thuê chuyển đồ vào trại.

Tôi tựa lưng vào một gốc cây khô. Bên kia sông, không một mái nhà. Cỏ cây chằng chịt. Phía sau lưng, hoang vắng. Một lối đi nhỏ mất hút sau rặng cây rậm rạp. Đứa bé trai trên mười tuổi, không biết từ đâu xuất hiện. Chiếc quần ngắn chắp vá đủ màu bọc ngoài đôi chân gầy guộc. Lấm lét nhìn chung quanh, nó đến gần chúng tôi, khẽ nói:

“Cho cháu vác vào trại nhá! tiền công rẻ hơn xe trâu.”

“Trại có gần đây không hả cháu? Đi chừng bao lâu…?”

Chợt thằng bé vụt chạy vào lùm cây.

“Này! Chị kia, nói chuyện gì thế?”

Tên công an, mặt non choẹt, vác súng đi tới: “Gia đình nhà đó là cái bọn nười nao động. Không chịu sản xuất, chỉ định nàm thuê.”

Đưa đôi mắt nhìn khắp lượt, hắn hất hàm nói tiếp:

“Đợi đấy. Sẽ có xe của Hợp tác xã phục vụ. Ai không tuân nệnh, cúp thăm nuôi.”

“Việt Nam tham dự Thế vận hội mang về ba cúp: cúp điện, cúp nước, cúp lương thực. Giờ đây lại sắp lãnh thêm một cúp nữa.” Tiếng thì thầm, rúc rích của hai thanh niên đi cùng.

Tiếng lọc cọc từ xa mỗi lúc một gần. Xe trâu. Những mảnh cây ngang dọc đóng vào nhau sơ sài.

Bốn bánh xe đẽo bằng gỗ. Sợi dây thừng lớn nối từ cỗ xe vào mình một con trâu già. Cán bộ Hợp tác xã nhảy xuống khỏi xe. Chúng mời nhau điếu thuốc lá Thủ Đô. Lương thực được chúng tôi khuân chất lên xe. Tên cán bộ ngồi trên một thùng đồ vững vàng nhất, chiếc roi mây quất mạnh vào mình trâu. Người thăm nuôi lẽo đẽo đi bộ theo sau. Trời nắng. Đường gồ ghề. Người và vật lê bước nặng nề.

Đi, đi mãi…sâu tít vào rừng, đường vòng vèo tưởng như không có lối ra. Qua những con suối cạn, ì ạch mãi chúng tôi mới đẩy được xe qua. Tên cán bộ ngừng lại cho con trâu nghỉ. Dãi nhớt đầy miệng, trâu thở phì phò.

Cổ tôi khô. Đầu nhức như búa bổ. tôi ngồi vật xuống cỏ…

Trời đã xế chiều, ánh nắng nhạt dần. Người và vật vẫn tiếp tục cuộc hành trình trong yên lặng. Có tiếng lá khô vỡ vụn. Không phải tiếng xào xạc của lá cây rơi rụng. Không phải tiếng chân chạy của thú rừng. Cặp mắt tôi như sáng lên. Một toán người bẻ lá đi ra. Có người thân quen không nhỉ? Bộ quân phục của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến dù phai màu theo năm tháng, dù bị rách vá bởi kiếp đọa đầy vẫn không làm mất đi vẻ thông minh, sáng sủa của những người tù. Vai vác cuốc, tay cầm xẻng, bi đông nước lủng lẳng thắt lưng, các anh nhìn chúng tôi với ánh mắt cảm thông, chia sẻ.

Tên công an thấp bé ôm súng chạy xộc lên phía trước. Tôi đi sát bờ cỏ, len lén rắc kẹo lên lối đi. Những mảnh giấy cuộn tròn thật nhỏ vội vàng chuyền tay. Lời nhắn gửi Sài Gòn.

Quãng đường rộng hơn, bằng phẳng. Đó đây, thấp thoáng mái nhà. Tôi gặp Ngô Kim Thái, bạn học cũ Trưng Vương đi trở ra. Chúng tôi chỉ kịp chào hỏi vài ba câu. Sắp tới K5. “K1 hả? Còn đi nữa!”

Xe trâu mỗi lúc một nhẹ hơn khi ghé một K. Tôi là người cuối cùng đi vào K có con số nhỏ nhất. Lố nhố vài người đến trước đứng trên thềm. Mọi người nhanh nhẹn phụ giúp chuyển đồ trong khi tôi trả tiền xe.

Xếp đồ vào phòng quy định, tôi chỉ kịp nhận giường chiếu là buông mình nằm mê mệt.

“Chị! Dậy đi chị! Không trình giấy, ngày mai làm sao được gặp?” Nghe đến giấy tờ, tôi bật người lên. Quên cả nhức đầu. Tú, người lay gọi tôi có gương mặt trái soan, còn rất trẻ. Tú đi chuyến tàu đêm, đến đây từ sáng.

“Phòng tắm ở đâu?”

“Phòng tắm hả?” Tú cười chỉ về hướng sau nhà. Mấy tấm phên che không kín. Có còn hơn không. Nhưng nước bẩn lắm. Phải xuống tít dưới lấy nước ở suối.

“Trước anh làm gì?”

“Chiến tranh Chính trị.”

“Cấp bậc?”

“Trung Tá. Chức vụ luôn nhé! Tham mưu trưởng trường Đại học Chiến tranh Chính trị Đà Lạt.”

“Chồng em cũng Chiến tranh Chính trị. Thôi, đúng rồi. Chính trị tội nặng nhất, “thành phần ác ôn” tập trung tại K1. Không biết họ nhốt mấy ổng có gần đây không nhỉ?” Tú thì thầm.

Tôi nhìn quanh, vẫn cỏ cây chằng chịt. Chỉ có hàng cây rào chung quanh khu tiếp tân này là được cắt xén ngay ngắn. Ngôi nhà ba gian. Tường cây, mái bằng lá cọ khô, nền đất. Hai gian dành cho thân nhân. Khoảng sân nhỏ với những bồn hoa, luống cây cảnh xếp bằng sỏi đá đơn sơ. Khung cảnh nơi đây đều mang dấu vết bàn tay của những ngươi thân. Lòng tôi chùng xuống, ngậm ngùi. Phía xa là nhà bếp. Trong ánh lửa bập bùng, thấp thoáng bóng người mẹ già, người vợ trẻ đang đun nấu thức ăn tươi cho ngày mai. Thịt gà kho gừng, thịt bằm ớt rang khô, bát canh rau, những món ăn quen thuộc tưởng như chìm vào quên lãng.

“Chị có nhìn thấy những cây nhang cắm trên cành cây phía đằng kia không? Của một bà phòng bên cạnh, ổng chết lâu rồi.”

Tôi lạnh người. Sáng nay mới biết. Dã man. Để người ta lặn lội ra đây? Đêm xuống. Bao trùm núi rừng. Tôi thao thức không ngủ. Lo lắng. Mong trời mau sáng. Cuối cùng tôi cũng thiếp đi để rồi được đánh thức bởi tiếng khua động của mọi người chung quanh.

Giây phút chờ đợi kéo dài. Hơn tám giờ, hai tên công an ôm giấy tờ đến. Gọi tên ai, người đó mới được vào.

“Con chị tên gì?”

Kỳ quá! Hôm qua đã ghi rồi mà. Người đàn bà đứng tuổi đi cùng chuyến đò với tôi. Đáng tuổi bà, tuổi mẹ.

“Thưa ông…”

“Chị phải bỏ ngay cái giọng quan niêu phong kiến ấy đi nhá!”

Giọng rụt rè: “Thưa anh….”

“Ai anh em gì với cái nhà chị?”

Tiếng nói cất lên như một tiếng thở dài:

“Thế bây giờ tôi phải gọi như thế nào đây?”

“Gọi nà cán bộ. Báo cáo cán bộ. Biết chưa?…”

Lần lượt mỗi người vào như bị hỏi cung. Gian phòng nhỏ hẹp, chỉ đủ kê một cái bàn nhỏ công an ngồi làm việc và một cái bàn dài, rộng. Thân nhân ngồi một dãy, phía bàn đối diện dành cho tù nhân. Vị trí của mỗi người tùy theo sự sắp xếp của công an…

Và rồi giây phút chờ mong đã đến. Người thân của chúng tôi đã được giải tới. Mọi người trong phòng nhốn nháo. Người ngồi bên trong đứng lên để được nhìn rõ hơn. Những người tù thong dong bước tới mỗi lúc một gần. Quần áo mang trên người còn nguyên nếp gấp, rộng thùng thình như đi mượn. Cặp mắt ai cũng sáng lên khi nhìn thấy người thân yêu.

Tên công an áp giải bắt xếp hàng một dưới sân. Hắn hất hàm cho từng người vào…Bốn năm xa cách, chúng tôi nhận ra ngay những nét thay đổi của nhau. Thời gian và khổ cực. Cuộc sống bên ngoài cũng chẳng mấy tự do. Khóc thì sẽ bị đuổi ra. Nhưng những giọt nước mắt vẫn lặng lẽ rơi.

Năm phút. Mười phút. Gần hết giờ thăm. Những câu hỏi, câu trả lời lạc lõng. Toàn những chuyện đã viết trong thư. Mấy cái gai nhọn lúc nào cũng muốn đâm vào da thịt. Đi suốt cả chiều dài đất nước để có được mười lăm phút gặp nhau. Quà sắp lên xe trâu. Tôi nhìn theo chồng đứng vào hàng để giải về. Chúng tôi theo ra cổng, nhưng chỉ được đứng bên hàng giậu nhìn theo cho đến khi toán người đã khuất vào lùm cây.

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Thuở còn đi học, nghe cô Tỉnh giảng Kiều say mê. Nhưng chỉ thích Chinh Phụ Ngâm, để rồi ngày nay mãi mãi phải mang nỗi buồn cô phụ. Tôi nuốt nước mắt bỗng dưng vạn vật mờ tất cả.


Cầu bao nhiêu nhịp…

Dãy hành lang chạy dài, chan hòa ánh nắng. Mảnh sân vuông trầm tư trong những ngày vắng học sinh. Nga thường có những giờ văn dạy bồi dưỡng cho học sinh giỏi của quận và của thành phố vào những buổi này. Đối với Nga, đây là một niềm vui, một hạnh phúc nhỏ nhoi khó tìm thấy trong quãng đời dạy học đều đều, buồn chán sau 1975. Học sinh: qua những kỳ thi của trường, của quận, chọn lọc mới được theo học các lớp này. Các em đã giỏi, lại ngoan, nhất là có tinh thần say mê học tập. Chương trình: do giáo viên tự biên soạn, tự chọn. Giờ dạy: không phải đủ “năm bước lên lớp” rập khuôn, cứng ngắc. Một lớp chỉ có khoảng mười lăm học sinh, ngoài những tiết học trong chương trình phổ thông, các em được học với ba giáo viên dạy bồi dưỡng.

Đây là một trong những chỉ tiêu thi đua lớn của ngành giáo dục toàn quốc để công nhận danh hiệu thi đua. Cho nên ngân sách của Quận tốn kém khá nhiều vào công tác này.

Khi Sài Gòn bị mất, tất cả giáo viên dạy môn Việt Văn đều bị “xét lại”, bởi quan niệm của nhà cầm quyền Cộng sản là “dạy Văn là dạy chính trị.” Những giáo viên có bố mẹ, chồng con là “Ngụy” phải chuyển làm văn phòng hoặc dạy tạm môn khác.

Chất lượng về môn Văn của học sinh giảm sút tới mức báo động.

Những năm sau, giáo viên lần lượt trở lại với đúng chức năng của mình, về tư tưởng chính trị đã có những giáo viên của Đoàn, Đảng phụ trách. Các đề thi về sau, càng bớt “mùi” chính trị, đấu tranh…

Nga bước vào lớp học. Chùm hoa ti-gôn màu hồng lay động trong lọ hoa nhỏ như chào đón. Lớp học ít học sinh nhưng ấm cúng vì tình thầy trò rất gần gũi với nhau. Nga đưa mắt thân yêu nhìn tất cả các em, nàng mỉm cười. Những ánh mắt long lanh chờ đợi. Bảng đen, phấn trắng sẩn sàng để Nga ghi tựa đề bài giảng…

Qua cầu ngả nón trông cầu,
Cầu bao nhiêu nhịp, dạ em sầu bấy nhiêu…

Người phụ nữ đã gửi gấm tâm trạng gì trong câu ca dao này? Em hãy phân tích nghệ thuật diễn đạt của câu ca dao để tìm hiểu giá trị gợi cảm của nó.

Miệng nói, tay ghi, và những hình ảnh trong quá khứ chập chờn, chập chờn…

“Về nội dung, câu ca dao phản ảnh nỗi buồn da diết và mênh mông của người phụ nữ. Các em có thể tưởng tượng đây là tâm trạng của một người con gái vừa mới chia tay người yêu để không bao giờ gặp lại. Về nghệ thuật, cần phân tích cao mặt âm điệu, hình ảnh, từ ngữ gợi tả.”

Mười lăm phút thăm nuôi, mười lăm phút thoáng qua như giấc mộng. Tôi và Hưng chia tay không một lời từ giã. Chỉ có những ánh mắt xót xa. “Mây phút bên nhau rồi thôi…” Khi bóng Hưng khuất sau khúc quanh cuối đường, tôi có ngờ đâu đó là lần vĩnh biệt.

Mảnh giấy nhỏ, vết cuộn tròn, chữ viết vội vàng: “Trung tá Hưng, nhà ở số 45 hay 50 đường Tự Đức, quận 1, có vợ vừa đi thăm nuôi, đã bị chết…” Mảnh giấy với mẩu tin oan nghiệt. Cả nhà sững sờ. Tôi nhận tin đau đớn. Cổ khô. Mắt ráo hoảnh. Tôi không khóc được…

o O o

Về âm điệu, với thể thơ lục bát biến thể, câu dưới kéo dài chín tiếng tạo ra một âm điệu buồn buồn, lặng lặng và kéo dài, dàn ra mênh mông. Qua cầu ngả nón trông cầu như trầm lắng vào lòng người. Ớ đây, không có cái sôi nổi hào hứng “rủ nhau đi cấy đi cầy”, không có cái xáo động “đố ai quét sạch lá rừng, để ta khuyên gió, gió đừng rung cây,” không có cái tưng bừng, hớn hở “trèo lên cây bưởi hái hoa, bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.” Ở đây, chỉ có cái buồn sâu xa, lắng đọng, dàn trải, mênh mông…

o O o

Tôi bắt đầu cuộc hành trình ra Vĩnh Phú. Hành trang nặng trĩu buồn lo. cầu Long Biên cũ kỹ. Nước sông Hồng dâng cao, đỏ ngầu cuồn cuộn như giận dữ, oán hờn. Mới hôm nào đây, đồng ruộng cạn khô. Bây giờ nước ngập ruộng vườn. Ngập mái tranh. Mùa này không mấy ai đi thăm nuôi vì đường trơn, ngập nước.

Tôi không nhận ra được quãng đường vừa mới đi qua. Ga Ấm Thượng vốn tiêu điều lại càng lạnh lẽo hơn. Đò dọc, đò ngang không thấy bến. Trong tầm mắt, nước mênh mông, mênh mông… Những chiếc cầu khỉ mới bắc thô sơ bằng những thân tre nhỏ. Mỗi lần đi qua, vịn tay đi từng bước. Có lúc sợ quá, phải nhắm mắt bò, cảm giác như sắp rớt xuống vực sâu. Có những quãng đường phải đi bè, ngồi chòng chành không vững để bước sang vùng đất ẩm ướt bên kia. Bến đò Ngọc, nước sông ôm kín sỏi đá buồn.

o O o

“Với hình ảnh chiếc cầu, các em hãy hình dung người con gái đang đứng cạnh con sông, con ngòi, với một chiếc cầu bắc ngang. Con sông, chiếc cầu trong hoạt động tinh thần của người Việt Nam ngày xưa cũng như trong văn học đều gợi lên một cảm giác buồn rầu, xa cách và vắng lặng.”

Huy Cận đã viết:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.

Không gian ở đây trở nên bát ngát làm nền cho nội tâm, càng làm nổi bật tâm trạng buồn da diết, mênh tnông, như không gian mênh mông xung quanh cô gái.

o O o

Tôi lầm lủi bước đi, quần xắn cao, lội nước. K1 tiếp tôi với một bộ mặt lạnh lùng: “Đã chuyển trại. Không biết chuyển trại nào.” (?) Tôi vòng trở lại K2: Không có tù nhân nào tên như trong giấy tờ xin gặp.”

Lê bước tới K3: “Vừa mới thăm nuôi. Chưa được phép lần hai.” Tôi không thể kiên nhẫn: “Tôi chỉ cần các ông dẫn chồng tôi ra, đứng ở phía xa xa cho tôi được nhìn thấy. Thế thôi!” “Chị sang K5 gặp Ban chỉ huy để xin giải quyết.”

K5 ở đâu? Xung quanh tôi chỉ là những rừng và núi. Tôi mệt quá rồi! Căng thẳng tinh thần, rã rời thể xác. Một vài người dân đi qua ái ngại. Họ rụt rè nói về cái chết của chồng tôi. Mỗi người một tin. Như vậy là hy vọng còn sống rất mong manh. Mảnh giấy nhỏ nhàu nát, còn vết cuộn tròn. Nét chữ nhảy múa trong đầu óc tôi… Rồi tôi cũng tới được K5. Trình giấy tờ, hỏi lý do. Tên công an dò xét:

“Ai báo tin cho gia đình là anh Hưng chết?”

“Tôi không biết. Một người đi thăm nuôi nào đó gửi giấy tới nhà. Có lẽ cũng vì sự hạch hỏi này mà người ta không dám nói tên.”

“Chị không được nghe những tin đồn thất thiệt. Đó là một trong những luận điệu xuyên tạc đường lối đúng đắn của Cách mạng…”

“Tôi không muôn nghe anh giảng chính trị nữa. Từ bấy lâu nay, khi một người tù cải tạo chết, các anh có báo tin ngay không? Nếu các anh cứ thẳng thắn cho hay, thì làm gì có những tin đồn có hại cho đường lối chính sách của Đảng của các anh. Chính vì cách làm việc che giấu của các anh…”

Tên công an dằn giọng:

“Thôi, chị nên bớt lại lời. Bây giờ chị có muốn chúng tôi giải quyết không?”

“Giải quyết cái gì? Tôi chỉ muốn các anh cho tôi biết chồng tôi còn sống hay đã chết. Anh có biết là tôi đã đi lòng vòng hết Kl, K2 rồi tới K3 và rồi ở những nơi ấy trả lời như thế nào không?”

Biết là không ngăn cản được cơn tức giận của tôi, tên công an cầm giấy phép đi vào trại.

Bên ngoài trời không có nắng, không gian bao trùm ẩm ướt. Bầu trời như chùng thấp. Thời gian nặng nề trôi. Tôi cũng không hiểu Ban chỉ huy họp bàn hay hỏi ý kiến cấp trên ra sao mà mãi một tiếng đồng hồ sau, tên công an ban nãy mới trở ra. Thái độ của hắn khác trước. Hắn nhẹ nhàng mời tôi đi theo.

Bộ Chỉ huy của trại là một căn phòng không lớn nhưng tôi vẫn có cảm giác lạnh người. Ly nước trà tên công an mời uống đặt trước mặt, tôi hững hờ đẩy về phía giữa bàn.

“Tôi, Thiếu tá Nguyễn Thùy. Xin chào chị.”

Tôi không ngạc nhiên về thái độ của tên chỉ huy trại. Hắn niềm nở hỏi thăm sức khỏe, hỏi thăm nỗi vất vả dọc đường…

Tôi lạnh lùng:

“Xin các ông cho biết về tin tức của chồng tôi.”

“Thay mặt nhà nước, thay mặt Đảng, tôi xin chia buồn cùng chị.”

Hắn nói thật nhiều, về những đức tính của chồng tôi. về tinh thần học tập lao động, về tai nạn chết người. Tôi như một khán giả ngồi xem một diễn viên loại dở đang vụng về diễn kịch. Cái phông làm nền cho sân khâu là lá cờ màu đỏ. Lạ thay! tôi đón nhận tin trong một tâm trạng hoàn toàn bình thản:

“Tại sao không nói cho tôi hay khi tôi tới K1, nơi mà cách đây khoảng một tháng rưỡi tôi đã đến thăm nuôi? Tại sao phải dấu diếm sự thật, khi tôi đã lặn lội ra tận nơi đây? Tại sao gặp ai ở đường tôi cũng níu lại hỏi thăm? Các ông thật vô cùng tàn nhẫn. Nhân viên của các ông còn trách tôi nghe tin đồn nhảm. Tôi rất hoang mang, nghi ngờ về cái chết của chồng tôi. Vậy sự thật chồng tôi chết ra sao?”

Nguyễn Thùy ngồi xuông chiếc ghế đối diện tôi:

“Chúng tôi có đầy đủ hồ sơ và hình ảnh người đã chết. Chị có muốn xem?”

“Các anh lập hồ sơ người chết để các anh tránh vi phạm nhân quyền. Tôi cũng không tin những hồ sơ đó.”

“Hay chị có muốn gặp một trong những người bạn của anh cùng đi lao động?”

Tôi ngồi yên. Bất động. Khoảng mười phút trôi qua, trung tá nhảy dù Việt Nam Cộng Hòa Phạm Ngọc Khanh được đưa lên. Ông nói y hệt Nguyễn Thùy. Có lẽ chỉ có câu cuối ông dành cho tôi “Thương tiếc anh và chia sẻ nỗi đau cùng chị…”

Tôi nhận lại những di vật của người yêu dấu. Lương thực, tôi nhờ Trung tá Khanh chia lại cho các anh em cùng phòng giam. Nguyễn Thùy chỉ cho nhận 2kg đường.

Xe Vôn-ga đưa tôi đi thăm mộ. Hưng nằm yên trên một ngọn đồi cao, quanh đó còn có khoảng năm ngôi mộ nữa. Tên công an ôm một bia đá nhỏ có khắc tên chồng tôi đặt vào trước khoảng đất không cao. Hắn loay hoay thắp nhang…

Lòng tôi giá lạnh. Tôi quay gót, xuống đồi…

o O o

Người con gái đã bước qua cầu. Qua cầu ngả nón trông cầu. Cái nón như che rợp cả không gian, cũng như choán hết nỗi buồn chia ly. Người con gái bước qua sông cũng như bước sang một giai đoạn khác của cuộc đời. Ngả nón, trông cầu: người con gái như thoát khỏi sự chế ngự của không gian và hoàn cảnh. Nỗi buồn da diết và lắng đọng trở thành rõ nét hơn. Không phải một nhịp cầu, không phải hai nhịp cầu, mà rất nhiều nhịp cầu. Cầu bao nhiêu nhịp, con số không thể xác định được. Các nhịp cầu liên tiếp nhau như những đợt sóng lòng sầu muộn, triền miên của người con gái.

Chỉ với những chữ rất thường dùng, rất quen thuộc, nhưng do cách sắp xếp các chữ đúng chỗ, có giá trị tạo hình và gợi cảm, câu ca dao chứa đựng bao nhiêu là tình cảm mà người con gái gửi gấm vào đó. Tất cả những chữ, những hình ảnh trên, làm nhiệm vụ chuẩn bị cho ý quan trọng nhất ở cuối câu ca dao xuất hiện và bao trùm lấy cả câu ca dao: Dạ em sầu bấy nhiêu.

Nhóm chữ kép “bao nhiêu… bấy nhiêu” ở đây cũng thật gợi cảm: “cầu bao nhiêu nhịp, dạ em sầu bấy nhiêu” làm cho người đọc hiểu rằng nỗi buồn của cô gái trước cảnh trời cao, sông rộng, những nhịp cầu liên tiếp nhau như những đợt sóng tình cảm, là một nỗi buồn sâu lắng và không bao giờ dứt…

Phải chăng đây là nỗi buồn riêng của một con người? Không! Đặt vào bối cảnh lịch sử của ca dao cổ, chúng ta hiểu đây là nỗi niềm tâm sự của cả một kiếp người, là tiếng kêu ai oán của nhiều thế hệ trong một xã hội không thể bảo đảm hạnh phúc cho mỗi con người…

Tiếng chuông chuyển tiết vang lên. tiếng chuông rung như làm Nga chợt tỉnh. Qua khung cửa, khoảng trời nhỏ màu xanh tràn ngập nắng vàng. Một vài con chim sẻ ríu rít chuyền cành. Nga xếp sách vở. Học sinh còn đang cắm cúi ghi chép…


Lối cũ… chẳng sao quên

Đường trần quên lối cũ
Người đời xa cách mãi
Tinh trần khôn hàn gắn thương lòng…

(Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay
– Đoàn Chuẩn – Từ Linh)

Vĩnh Phú, địa danh tôi muốn quên mà không thể nào quên. Trong suốt hơn mười năm qua và trong cả cuộc đời. K1, K2, K3. K4…những chữ số ký hiệu kinh hoàng. Của tôi. Của những người tù và gia đình họ. Ở rồi, đến rồi, đi rồi…mấy ai muốn quay trở lại? Vậy mà hôm nay tôi vẫn phải trở về đây. cảnh vật không khác xưa là bao nhiêu dù thời gian trôi qua bốn năm rồi…

Những khẩu hiệu: “Chào mừng thành công Đại hội Đảng 5,” “Đảng Cộng sản Việt Nam, Người lãnh đạo Tài Tình”, “Đảng Cộng Sản Việt Nam muôn năm…” lem luốc màu đỏ vì nước mưa, chảy dài xuống như những dòng nước mắt pha máu ngoằn ngoèo trên từng bờ tường loang lổ, cũ kỹ. Ngay phía dưới lại có hàng chữ mang tính “Pháp lệnh” bằng những lời thô tục “Cấm ỉa đái.” Có cả những nét chữ nguệch ngoạc chửi thề. Hình như không một ai để ý.

Ở cái ga xép èo uột gần tận cùng của đất nước này, những con người lam lũ, ngác ngơ, còn đang loay hoay với ký trà, bao gạo, rổ rá nhựa, nồi niêu xoong chảo, xấp vải hoa Chợ Lớn hoa xanh, hoa đỏ…Che che, giấu giấu, tránh con mắt dòm ngó của bọn Công an kinh tế. Chính sách của Đảng đổi mới rồi, tự do buôn bán nhưng người dân lại khổ vì sưu cao thuế nặng.

Theo lời chỉ dẫn, chúng tôi không đến trại Tân Lập bằng đường sông nữa. Đạp xe trên bờ đê. Dắt xe đi bộ qua bãi cát lổn nhổn những vỏ sò, vỏ ốc. Băng ngang những thửa ruộng khô cằn của vùng đất miền trung du. Cái hình ảnh “quê em miền trung du, đồng chiêm lúa xanh rì” của một thời hoàng kim nào xa lắm, nay ở đâu? Giặc tràn về đốt phá thôn làng. Gia đình ly tán. “Vườn không nhà trống tàn hoang” còn trong trí óc non nớt của tuổi thơ tôi. Giờ đây, giặc nào đã làm cho miền Bắc điêu tàn?

Đảng Cộng sản Việt Nam, đỉnh cao của trí tuệ loài người! Ôi! mỉa mai thay những khẩu hiệu kêu to như những chiếc thùng rỗng! Đảng lãnh đạo tài tình làm sao để bao nhiêu năm đời ta có Đảng, bấy nhiêu năm Đảng phá nát tan? Để những người dân quê hiền hòa cởi mở trở nên ngu ngơ câm lặng đến thế kia sao?

Dân cư ở đây rất thưa thớt. Họ sống trong những mái nhà lụp xụp, vách đất, mái tranh. Mảnh vườn. Rào thưa. Khoảng sân đất. Giếng nước. Chiếc gầu…tất cả đều quá nhỏ bé, trơ trụi, xa lạ. Trẻ con gầy còm, ốm yếu. Quần đùi vá víu miếng nọ miếng kia. Cởi trần, ngồi nghịch đất. Không tiếng nô đùa. Không tiếng hát. Không tiếng nhạc của máy thu thanh. Không cả tiếng chim hót. Như một vùng đất chết.

Ba người anh cùng đi với tôi chuyến này đều là những thanh niên đầy nhiệt huyết của hơn ba mươi năm về trước. Thoát ly gia đình, mang tuổi trẻ của mình cống hiến cho đất nước. Để rồi khi biết mình bị lừa thì đã muộn. Cũng dòng sông Lô nắng vàng lấp lánh nhưng còn đâu tiếng hát rộn ràng? Cũng con đê này của những buổi chiều vai đeo ba lô từ chiến khu về, rầm rập bước chân.

Trong thời gian, “Hồi chuông ngân nga trong chiều thu ngập gió…Hồn ta chìm đắm tiếng chuông xa vời.” Ba người anh tôi ôn lại một vài kỷ niệm xưa. Tiếc nuối. Tôi làm các anh tỉnh giấc mơ: “Phải chi ngày ấy các anh không đi theo phong trào Thanh niên Cứu quốc thì ngày nay em đâu phải đi bốc mộ chồng ở một nơi đèo heo hút gió này!” Ba người anh im lặng. Họ như muốn quên đi những năm tháng sục sôi khí thế cách mạng. Yêu tự do. Yêu tổ quốc. Đánh đuổi giặc Pháp ra khỏi đất nước. Chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày trở về giải phóng thủ đô Hà Nội. Những người bộ đội với tuổi hai mươi. Trẻ trung. Học thức. Hà Nội đã bừng lên một sức sống mới.

Hà Nội rực rỡ cờ hoa. Hà Nội tưng bừng tiếng hát. Không bao lâu, những cuộc đấu tố dã man diễn ra khắp nơi. Ông bác tôi bị đấu tố, dù có năm người con đi kháng chiến. Nghe tin dữ, các anh về quê xin Đảng khoan hồng. Không những không tha, họ còn xúi giục các anh tôi: phải giác ngộ cách mạng, phải đứng vào hàng ngũ nhân dân, cùng vạch tội, chỉ tên địa chủ, cường hào, ác bá. Ông bác tôi bị tù. Khổ sai lao động, Thất vọng, đớn đau nhìn bố vác cây, đào đất, khiêng đá, trộn hồ…Những người tù già này làm việc suốt ngày đêm để đạt chỉ tiêu biến khu đất hoang quanh hồ Bảy Mẩu, Hà Nội, thành một công viên mang tên Thống Nhất. Đến thập niên 1980 đổi thành công viên Lê Nin.

Cũng vì sự khổ nhục của người bác thân yêu mà bao lần ra Hà Nội là bấy nhiêu lần tôi không đặt chân vào công viên này. Cũng như tôi đã không đến vui chơi ở khu K4 Long Khánh, một địa điểm du lịch mới lạ của miền Nam. Vì nơi đây được tạo nên bởi những bàn tay của cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị Cộng sản tù đầy, hành hạ.

Các anh tôi, vài năm đầu “Sài Gòn giải phóng,” vì đường lối của Đảng, hay vì muốn các em của mình ở miền Nam sớm “giác ngộ” để hòa nhập ngay với cuộc sống mới, đã có những lần tranh luận. Bao giờ cũng trở thành lớn tiếng cãi nhau. Tôi đã làm các anh nhức đầu không ít. Lần cuối cùng, tôi không cãi lại các anh nữa. “Đảng đã cho các anh tôi sáng mắt sáng lòng.” Đó là lần một anh nói với tôi: “Người em không yêu làm em khổ, em đâu có đau bằng anh? Anh đã yêu, anh đã dâng hiến cả cuộc đời, mà ngày nay anh bị phụ bạc, anh bị lừa dối…” Một anh khác: “Viên gạch đã trót để vào xây tường, giờ có rút ra cũng bị vỡ tan. Thôi em ạ, không còn con đường nào khác!”

Trên con đê này, giữa khung cảnh hoang vắng của buổi chiều trung du, bốn anh em đi bên nhau. Thương cho thân mình. Thương cho các anh. Lý tưởng sụp đổ tan tành. Ngày mai đen tối.

Trời chạng vạng. Tôi đã bắt đầu đi những bước thấp bước cao. Quãng đường này làm tôi nhớ lại những lần vượt biên. Xuống ghe tại Nhà Bè khi thành phố còn chìm trong màn đêm. Lên bờ đi bộ băng qua bao nhiêu là thửa ruộng, vấp ngã bao lần mà không cảm thấy đau đớn vì thần kinh đang trong tình trạng căng thẳng: hồi hộp, lo sợ.

Lần này trên cánh đồng: mệt mỏi, chán chường. Cũng phải vài giờ nữa mới tới trụ sở Ban chỉ huy. Tiếng dế nỉ non. Xa xa ánh đèn leo lét. cố lê bước tới đó để xin ngủ nhờ qua đêm. Nhìn một căn nhà tương đối khang trang, chúng tôi vào gặp chủ nhà xin ngủ đỡ ngoài mái hiên. Nhưng cũng bị từ chối. Đang lo lắng không biết tôi có đủ sức đi tiếp hay không, thì như có phép lạ, một người đàn bà gánh lúa từ xa đi tới. Bà ta dừng lại: “Các bác tìm nhà ai thế?” Khi biết ý, bà ta mời chúng tôi về nhà. Bốn anh em mừng rỡ như người sắp chết đuối vớ được chiếc phao. Dù gánh lúa nặng trĩu trên vai, bà ta vẫn bước đi thoăn thoắt. Trong khi tôi lẽo đẽo theo sau.

Khi bà đẩy cánh cổng tre, bóng tối làm tôi không thể nhìn rõ một người đàn ông đang xếp lúa ngay đầu nhà. Ông ta không quay lại và cũng không lên tiếng đáp lại lời chào của các anh tôi. Trước thái độ lạnh nhạt đó, chúng tôi hơi e ngại. Trong lòng vẫn mừng thầm không bị đuổi ra.

Một gian nhà ba gian bằng tre sơ sài nhưng gọn ghẽ. Nhìn cách trang trí nhà cửa, nhìn bức tượng Chúa nho nhỏ trên bàn thờ cao, tôi có thể đoán chủ nhân không phải là người quê mùa. Tôi ôm bộ quần áo ra giếng. Những giọt nước mát lạnh làm tôi tỉnh táo lại. Trăng bắt đầu lên. Tôi đã nhìn rõ khung cảnh chung quanh. Mảnh sân hình chữ nhật. Khu vườn nhỏ. Chái bếp cuối sân. Ánh lửa bập bùng. Hàng cây cau vươn cao đón ánh trăng. Tôi liên tưởng tới hàng cau của khu vườn trước nhà tôi ở quê hương. Ngày còn nhỏ, tôi vẫn thường trèo lên nhanh như một chú mèo con để hái quả cau cho mẹ tôi têm trầu đãi khách. Trong không gian thoang thoảng mùi hương hoa thiên lý. Âm thanh tiếng đàn mandoline bản Valse Favorite vui tươi, tiếng hát chan chứa tình quê “Làng tôi xanh bóng tre. Hồn lắng tiếng chuông ngân. Tiếng chuông nhà thờ rung…” chợt khua động trong tôi ngày tháng êm đềm thời thơ ấu.

Tôi thở thật sâu để nén xúc cảm. Đêm yên lặng. Đêm mờ ảo. Tất cả đều rất mong manh. Một tiếng động nhỏ cũng đủ làm tan vỡ giấc mơ xưa thoáng đến với tôi, đưa tôi về thực tại. Tôi phải vào nhà để bàn chuyện ngày mai.

Tiếng cười nói làm tôi ngạc nhiên. Ông chủ nhà cùng ba anh tôi đang vui vẻ quây quần bên khay trà bốc khói. Thấy tôi vào, ông kéo ghế trịnh trọng mời ngồi. Tôi còn đang ngơ ngác trước thái độ thay đổi nhanh chóng thì một anh đã giải thích: “Ban đầu ông Tuyển tưởng anh em mình đi thăm nuôi tù. Bây giờ ở đây có tù hình sự (những thanh thiếu niên can tội cướp của giết người). Tù chính trị chuyển đi từ lâu rồi. Một số về trại Hà Nam Ninh. Đa số vào Nam.”

Ông Tuyển đặt ly trà thơm phức trước mặt tôi: “Được biết cô về đây bốc mộ cho chồng, chúng tôi vô cùng cảm kích. Gia đình chúng tôi xin hết sức giúp đỡ cô và các ông anh đây.”

Vầng trán cao. Khuôn mặt chữ điền. Cách nói chuyện lưu loát cùng dáng điệu từ tôn, cử chỉ lịch sự, chứng tỏ ông Tuyển là một người có một số vốn kiến thức về học vấn cũng như về xã hội. Ông cho biết có một người anh là linh mục trong một ngôi nhà thờ vùng đất đỏ Long Khánh.

Ông Tuyển đã sắp xếp chỗ ngủ cho chúng tôi. Để khách được tự do, ông Tuyển dặn dò vợ con và đi vào thôn tìm người quen chuyên việc cải táng.

Gian phòng khách rộng, sơ sài nhưng ngăn nắp. Giường tre, bàn gỗ mộc mạc, thô kệch, được hình thành có lẽ do bàn tay của chủ nhà. Tượng Chúa và tượng Đức Mẹ trên cao là một hình ảnh cảm động hiếm có trong những ngôi nhà tại miền Bắc. Theo như lời ông Tuyển, đời sống gia đình ông bắt đầu khá hơn kể từ khi hợp tác xã nhà nước tan vỡ. Lối làm ăn tập thể nhường lại cho lối khoán sản phẩm. Tuy nhiên, vẫn phải nộp đủ cho nhà nước, cả nhà xúm nhau cầy cấy mới có gạo ăn.

Dưới nhà ngang, các con ông bà Tuyển đang đập lúa, giã gạo, sàng sẩy… Mọi người chăm chú làm việc, không tò mò để ý khách phương xa. Tôi mệt mỏi nằm thiếp đi trong chốc lát.

Khi tôi tỉnh dậy, trăng đã lên cao. Ông Tuyển vừa về tới. Tay cầm hai chai rượu và một bó hoa tươi. Ông cho biết đã tìm được một người rất thành thạo trong việc bốc mộ. Chai rượu này để rửa hài cốt. Tìm mua được rượu ở miền núi không phải là chuyện dễ dàng.

Bà Tuyển bưng mâm cơm từ nhà bếp lên. Chúng tôi trải chiếu ngoài hiên, ngồi ăn cơm dưới ánh trăng. Đĩa thịt gà luộc thơm mùi lá chanh thái chỉ rắc lên trên. Tô canh rau “tập tàng” – đủ mọi loại rau hái ngoài vườn – mát ngọt. Tôi không thể ngờ anh em chúng tôi được đối xử như một thượng khách ở nơi đây. Thế mới biết ở một nơi tưởng chừng như không có, ta vẫn tìm thấy một tấm lòng.

Qua một đêm ngủ với nhiều mộng mị, sáng sớm hôm sau, tôi và các anh đến Bộ Chỉ Huy. Có quãng đường đi được bằng xe đạp. Có quãng đường đá lởm chởm phải dắt bộ. Chỉ huy trại là người mới. Không phải Thiếu Tá Nguyễn Thùy tôi gặp lần trước. Hắn vồn vã thái quá, khiến tôi chỉ im lặng ngồi nghe. Hắn kể chuyện, có một người ở nước ngoài, cách đây không lâu, về đây bốc mộ bố. cầm bình hài cốt lên xe, xe không nổ máy. Gọi xe ngựa đến kéo, con ngựa nhảy quớ lên không chịu chạy.

Nhìn hắn ba hoa, ngồi bỏ cả hai chân lên ghế, tôi hơi khó chịu. Nhất là cặp mắt hắn thỉnh thoảng lại nhìn vào mấy bao thuốc lá “555” anh tôi mang đến làm quà. “Ba con năm vừa nằm vừa ký”, cho nên bọn tôi mới được chấp thuận một cách dễ dàng.

Những chuyện hắn nói có thể xảy ra ở đâu, hắn nghe được. Hắn muốn nói đến đời sống tâm linh. Anh em tôi thì có rất ít thời gian. Cũng có thể sau một thời gian quá dài bị đè nén, những con người triệt để chống chủ nghĩa duy tâm ngày nay bắt đầu duy tâm hơn ai hết.

Xe Volga cọc cạch chở chúng tôi đi lên ngọn đồi, nơi an nghỉ của những quân nhân chế độ cũ. Ít ra từ ngày Việt Cộng muốn bang giao với Mỹ, đã có lúc họ bỏ được từ ngữ “ngụy quân ngụy quyền.” Nhưng tiếc thay những tên gọi này vẫn là vết hằn trong lòng người Việt.

Tôi ngồi đợi trong một căn nhà nhỏ dựng sơ sài bằng tre, nứa. Nền đất lồi lõm. Trên vách nhỏ treo đủ thứ khẩu hiệu, kế hoạch công tác hàng tháng, tuần…

Hình ảnh các lãnh tụ Cộng Sản thế giới và trong nước quá khổ so với bức vách, treo xộc xệch như sắp rơi. Đây là nơi làm việc của toán công an canh gác.

Cách đây bốn năm, khi tôi đến nơi đây nhận mộ chồng, cảnh vật chung quanh gọn ghẽ hơn. Hàng ngày còn có bàn tay bạn tù săn sóc. Giờ đây cỏ cây, dây leo chằng chịt, không nhìn thấy lối đi. Hơn một giờ đồng hồ trôi qua, tên công an cầm bản đồ nghĩa trang và các anh tôi trở lại trụ sở với gương mặt thất vọng. Không tìm thấy mộ vì cỏ cây che lấp cả một vùng rộng lớn. Tim tôi như muốn ngừng lại. Chẳng lẽ lại về không?

Tôi xin mọi người hãy cho tôi đến tìm. Tôi thầm cầu nguyện cũng như ở Sài Gòn, mẹ tôi và các em tôi đã cầu nguyện cho chuyến đi của tôi được tốt đẹp.

Kỳ lạ thay! Tôi chỉ vạch lá chui vào đúng một quãng ngắn là tìm ra mộ. Tôi reo to lên. Các anh tôi đứng ngoài không tin. Ngôi mộ có hai bia đá. Tôi lầm thế nào được. Một tấm bia tôi mang từ Hà Nội lên. Một tấm bia nữa của anh em bạn tù đẽo gọt bằng tay. Nét chữ khắc vào đá mờ đi vì rêu phủ.

Trong khi người thợ cải táng chặt cây cối chung quanh, tôi thắp nhang lui cui cắm trên từng ngôi mộ. Đêm mưa, cỏ ướt, ngửi thấy có hơi người, những con vắt nhảy ra, bám lấy chúng tôi. Máu chảy ròng ròng. Tôi muốn ngất người đi vì sợ. Cây cối quang dần. Dầu nóng tôi bôi đầy mặt, mũi, chân, tay, khiến những chú dế bé tí xíu cũng không dám nhảy ra đột kích nữa.

Một ít trái cây mua vội dọc đường, bó hoa ông Tuyển mua giùm, chúng tôi chỉ có những tấm lòng thành trước linh hồn người đã khuất. Người anh lớn nhất của tôi khấn thật lâu. Những cây nhang cháy rất nhanh, tàn cong vòng…khói nhang thơm tỏa ngát. Nhát cuốc đầu tiên bổ xuống đất, lòng tôi đau buốt. Tiếng cuôc, xẻng đều đều vang vọng giữa miền rừng núi hoang vu. Từng tảng đất bật lên, tâm hồn tôi như vỡ vụn. Cho tới lúc lưỡi cuốc đụng vào quan tài. Tôi hồi hộp. Các anh tôi nôn nóng.

Khi tôi ra đến Hà Nội, các bậc lão thành có trấn an: “Đất miền núi khô ráo, xương cốt lâu ngày sẽ tan đi. Phải chuẩn bị sẵn tinh thần: có thể đứng trước một cái hòm chỉ có đầy cát bụi!”

Thế cho nên khi những nhát búa đầu tiên bổ xuống để nạy nắp quan tài, tôi cứ giật thót mình. Một cảm giác đớn đau như lần đầu tiên nghe thấy tiếng đóng đinh vào quan tài bố tôi lúc liệm quan…

Gỗ áo quan dầy và chắc. Khi chiếc nắp bật lên, tôi lạnh người: chiếc chăn len màu đỏ! Suốt đêm qua, người anh lớn của tôi cứ chợp mắt là nằm mơ thấy xác chồng tôi quấn bằng mảnh vải màu đỏ. Gương mặt các anh tôi xúc động. Bóc lượt chăn len ra là quần áo. Hết lớp áo này đến lớp quần khác. Bạn bè đã dồn tất cả cho người chết mang đi. Nước mắt tôi ràn rụa. Màu xanh lá cây đậm của chiếc áo len mẹ tôi mua tặng, gửi trong năm ký lô quà đầu tiên ra Bắc. Chiếc sơ-mi trắng ngà có từng sợi chỉ xanh xanh, hồng nhạt, mang về Sài Gòn sau chuyến du học tại Mỹ năm 1971. Chai dầu gió, đôi giày ba ta…, tất cả tôi đã tự tay xếp vào ba lô trước ngày anh đi trình diện “học tập cải tạo”.

Không còn lầm được. Không còn ảo tưởng: “Đã trốn trại, còn đang ẩn trốn tại một nơi nào.” Tôi mất anh thật rồi! Thế là hết. Tôi khóc nức lên. Trời như nổi gió. Cỏ cây chao đảo. Đồi núi quay cuồng. Quanh tôi cảnh vật mờ đi…

Lâu lắm, khi tôi tỉnh lại, đống tro tàn của áo quần vừa đốt còn âm ỉ cháy. Trong một cái xanh to bằng gang dùng thổi cơm cho trại tù đã gẫy tay cầm, các anh tôi đã đổ bột nhang thơm trộn với rượu trắng để ngâm xương cốt. Người thợ cải táng cùng các anh tôi quấn giấy bao từng lóng xương, đặt từng mảnh vào trong nhiều túi ni-lông…

Không gian mênh mông yên lặng. Tôi lặng lẽ theo các anh tôi bước nhanh cho kịp chuyến đò cuối cùng…

 

 

Đà Lạt ơi ! Bao giờ tái ngộ ?

Tôi thường gặp Thân trong những buổi sinh hoạt của Cộng đồng. Trước đó, Thân kể chuyện: “Em là người đầu tiên đọc bài viết của chị, biết chị có ít nhiều liên quan tới trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị của em”. Tôi nhớ đến một hôm tình cờ gọi đến một tuần báo, khi xưng danh, từ đầu dây bên kia, tiếng Thân như reo vui và vội vàng xin số điện thoại của tôi.

Kể từ đó, tôi thường xuyên đến với gia đình Hội Ái Hữu Sinh Viên Sĩ Quan Đại Học Chiến Tranh Chính Trị. Tôi muốn viết hoa hai chữ “Gia Đình” vì tôi đã nhìn thấy tình cảm chan hòa ấm cúng giữa các anh em cựu sinh viên. Cái tình cảm ấy, một người lẻ loi như tôi cũng thấy được san sẻ, ấm áp một phần nào…Và nhất là trong tôi luôn luôn có một sự quý mến, trân trọng ngày xưa dành cho ngôi trường và ngày nay dành cho Hội.

Một nhà báo lão thành, cụ Lê Minh Chính, có nói với tôi rằng: “Tôi rất xúc động khi đọc bài cảm nghĩ của chị sau khi dự buổi lễ kỷ niệm 25 năm thành lập trường ĐH/CTCT Đà Lạt. Phải là một người vợ thân thiết với công việc làm của chồng mới có được những rung động chân thành như thế.”

Thật vậy, dù thời gian chồng tôi làm việc tại trường với chức vụ Tham Mưu Trưởng rất là ngắn ngủi, nhưng trong tôi vẫn giữ biết bao nhiêu kỷ niệm về Đà Lạt,về ngôi trường trong quá khứ tôi đã được đặt chân.

Làm sao tôi có thể quên được những ngày đầu tiên cùng chồng tôi sắp đặt nhà cửa. Ngôi nhà của chúng tôi được nhà trường phân phối là một biệt thự lớn nằm trên con đường Trần Hưng Đạo. Bốn phòng ngủ ở hai bên. Chính giữa là một phòng khách rộng mênh mông với sàn gỗ lim bóng loáng. Nơi đây chúng tôi có thể tổ chức những buổi tiếp tân hàng vài trăm người. Lan can phía trước, giàn hoa giấy chen nhau trắng, đỏ. Lan can phía sau, chập chùng một rừng thông mờ mờ thấp thoáng ẩn hiện trong sương mai…

Thời gian đó là Đà Lạt mùa đông. Chúng tôi cùng bạn bè có những buổi tối ngồi bên lò sưởi. Củi thông bập bùng ánh lửa,tiếng than lách tách reo vui, rộn rã như một đêm pháo bông rực rỡ. Con đường Trần Hưng Đạo bao giờ cũng êm ả tiếng thông reo. Từ trong nhà, tôi nghe thấy cả tiếng vó ngựa lọc cọc nện trên mặt đường tráng nhựa. Đổ dốc xuống phía hồ Xuân Hương. Lên dốc đi về đâu không biết, tôi chỉ nhớ một quán cơm Tây nhỏ bé với món thỏ sốt vang tuyệt vời ở ngã ba đường…

Nhưng khi tôi trở về Sàigòn, ngôi nhà vốn đã rộng lại càng thêm hoang vắng nên chồng tôi chọn một nơi khác ở trên con đường Lữ Gia để gần trường, gần bạn hữu. Tại ngôi nhà này, tôi đã tự tay nấu nướng món ăn mời khách. Ngày mùng một Tết đón tiếp một số anh em sinh viên sĩ quan với đầy đủ hương vị ngày xuân…

Trí tưởng đưa tôi về buổi họp mặt Tất niên, buổi lễ gắn Alpha của nhà trường. Cảm động, tưng bừng, lịch sự. Làm sao tôi có thể quên được giờ phút ấy?

Ngôi trường Đại Học CTCT cũng rộng lớn bề thế lắm nhưng với tôi vẫn có dáng vẻ khiêm tốn, đáng yêu. Có phải chăng nơi đây hằng ngày ôm ấp những con người có những đức tính dễ thương như vậy? Rừng thông vây quanh che chở. Dáng cây thông dù mọc ở sườn núi chênh vênh mà thân vẫn thẳng tắp như chí khí hiên ngang bất khuất của người trai dưới mái trường CTCT.

Đại Tá Quỳnh, vị chỉ huy trưởng tế nhị, khéo léo, được toàn trường kính nể. Phu nhân của Đại Tá, một người đoan trang mẫu mực. Tài nấu nướng, làm bánh của bà khiến tôi muôn được bà dậy bảo. Những người con trong gia đình Đại Tá mỗi người một vẻ tài hoa và tính nết ngoan ngoãn rất đáng yêu.

Tôi đã có những ngày tháng sống rất hạnh phúc và đầy ý nghĩa ở đây.

Rồi 1975, lần lượt các thành phố miền Nam thất thủ. Không đành lòng phá hủy những gì đã từng ngày, từng tháng, từng năm xây dựng, toàn bộ nhà trường di tản về Sàigòn. Nỗi đau mất mát trong lòng mỗi người không bút nào tả xiết. Đại Tá Quỳnh và cấp chỉ huy nhà trường về tới Sàigòn là chạy đôn chạy đáo lo sắp đặt nơi ăn, chốn ở cho sinh viên sĩ quan. Đó là một khu quân sự ở đầu đường Phan Đình Phùng, quận 1. Trong khi đó, một số tướng tá cao cấp các ngành khác đã lẳng lặng tìm đường cao chạy xa bay!

Sau 1975, sự đi lại giữa thành phố này đến thành phố khác không phải là dễ. Thế mà tôi được trở lên Đàlạt vào mùa hè năm 1980 trong một Hội Đồng coi thi học sinh giỏi.

Một Đàlạt tiêu điều. Một Đàlạt hoang vu. Một Đàlạt buồn hiu hắt. vẫn con đường đó, vẫn hàng thông xanh đó nhưng tất cả im lìm như chịu đựng. Xe dẫn tôi vào thành phố, hồ Xuân Hương liễu rủ thê lương. Khu Hòa Bình vắng tanh vắng ngắt. Khu phố xá buôn bán cửa đóng buồn hiu.

Ngoài công việc đến trường Trần Hưng Đạo hội họp, coi thi, tôi không đi chơi một nơi nào cả. Tôi xót xa nhìn Đàlạt đang chết dần chết mòn trong lòng chế độ mới. Nhất là tôi không đủ can đảm đi qua những nơi in dấu vết kỷ niệm một thời với người đã nằm xuống…

Các thầy cô giáo trong đoàn Giám khảo kỳ thi học sinh giỏi toàn quốc được chọn lựa từ một số quận huyện xuất sắc nhất cho nên mới chỉ quen nhau. Sau giờ làm việc họ rủ nhau đi chơi tưng bừng. Chỉ còn một mình tôi ở lại phòng đọc sách. Con gái tôi được các cô, các bác dẫn đi xem nhiều thắng cảnh nổi tiếng của Đàlạt. Trở về, mọi người ríu rít, trầm trồ ca tụng vẻ đẹp thiên nhiên vô cùng thơ mộng của thành phố cao nguyên này. Ai cũng thắc mắc, hỏi han tạo sao tôi không tham dự? Tôi đành nói thật lòng mình…

Một cô giáo Nga Văn mới ra trường, còn rất trẻ từ Hànội mới đổi vào Sàigòn, tròn xoe cặp mắt ngạc nhiên: “Vậy mà suốt mấy ngày hôm nay bọn em cứ thì thầm với nhau phải coi chừng chị. tưởng chị là Đảng viên được phân công đi theo đoàn để kiểm soát mọi người.” Chính tôi cũng nghĩ cô giáo miền Bắc là người theo rõi mọi hành vi của chúng tôi. Ôi! Một chế độ mà mỗi con người đều sợ và nghi ngờ lẫn nhau.

Bắt đầu từ đó tôi như một đề tài để mọi người trong đoàn bàn luận. Tất cả đều dành cho tôi một cảm tình quý mến. Tôi cũng thừa hiểu vì phong trào thi đua của Quận, của Thành phố, mà tôi được sử dụng. Và tôi, dạy thêm một số giờ cho học sinh giỏi thù lao nhiều, thêm cách mưu sinh. Nhất là vì yêu nghề, yêu học sinh trong đó có con tôi và đa số con em “ngụy quân ngụy quyền.” Thật vậy, mỗi lớp Văn tôi phụ trách, con cán bộ miền Bắc chỉ có l/10. Thật ra các em đó cũng chẳng có tội tình gì. Nếu tôi ghét bỏ các em, tôi cũng giống như người Cộng Sản mà thôi.

Tôi kể về những kỷ niệm ngày xưa của tôi ở nơi đây. Thời đi học với những trại hè hội thảo, công tác tưng bừng rộn rã. Sau bữa ăn chiều, ríu rít rủ nhau đi bộ từ Viện Đại Học Đà Lạt xuống hồ Xuân Hương, vòng lên khu phố Hòa Bình. Hạt dẻ rang ấm trong túi áo, chiếc bắp nướng thơm phức mùi mỡ hành, ly cà phê sữa Thủy Tạ, tô phở Tùng bốc khói.

Tôi kể về trường Đại học CTCT, nơi làm việc của chồng tôi. Các sinh viên sau khi đậu tú Tài 2 được nhận vào học phải qua một kỳ thi. Họ là những người được trang bị hành trang về văn nhiều hơn về võ…Các cô giáo trẻ reo lên: “Ô, thích nhỉ. Phải chi bọn em có được những người bạn như vậy!”

Tôi kể về những buổi liên hoan, văn nghệ của trường. Không khí ấm áp, vui tươi, lịch sự. Tôi kể về Đàlạt những buổi cuối tuần. Đàlạt đẹp hơn, vui hơn với từng nhóm, từng nhóm sinh viên sĩ quan hai trường Chiến Tranh Chính Trị và Võ Bị chỉnh tề trong quân phục ung dung dạo chơi trên đường phố, quanh bờ hồ, trên đồi Cù. Bên cạnh là những người đẹp phơi phới má xuân hồng. Đàlạt ngày đó với tất cả sức sống và mãi mãi là mùa xuân.

Nghe tôi nói chuyện Đàlạt ngày xưa, có người tiếc nuối cuộc đời bị mất mát, có người xuýt xoa mơ ước được sống trở lại thời ấy dù chỉ một ngày…

Một hôm từ trường Trần Hưng Đạo trở về chỗ ở, xe không đưa chúng tôi về lối đường Phan Đình Phùng mà đi ngang qua lối khác, nơi có con đường nhà tôi ở ngày xưa. Con đường vẫn êm ả như trong mơ. Hai hàng thông cao vút. Ngôi nhà hiện ra tàn tạ không có lấy một chút màu xanh. Nước mắt tôi ràn rụa. Tôi bỗng lạnh người khi nghe giọng nói trẻ thơ hồn nhiên của con khoe: “Mẹ ơi, đêm qua con nằm mơ thấy bố!”

Đà lạt trong mơ. Đà lạt trong trí tưởng. Cũng như những người yêu Đà lạt, quá khứ tôi ở đó, kỷ niệm tôi ở đó. Tôi đã xa Đà lạt rồi nhưng không hề nghĩ mình đã vĩnh viễn mất vùng đất thân yêu đó. Nhưng Đà lạt ơi! Đà lạt ơi, bao giờ tái ngộ?


  

Mùa xuân cho con

Buổi sáng nay, khi bước vào phòng, mẹ sững sờ cảm động. Con đã tới trường để lại trên bàn bông hoa hồng màu vàng, gói quà nho nhỏ, tấm thiệp chúc mừng. Tất cả đều nhỏ bé, xinh xắn như con gái yêu quí của mẹ. Một niềm vui lớn lao đến với mẹ trong ngày hôm nay. Những lời con ghi, mẹ rưng rưng nước mắt. Mẹ mừng vì con đã trưởng thành.

“Đây là lần sinh nhật đầu tiên của mẹ trên đất Mỹ. Thời gian nơi đây qua nhanh quá, mẹ nhỉ? Mới vừa đây, hai mẹ con mình bỡ ngỡ đến đất này. Ngoảnh đi ngoảnh lại đã hơn năm tháng rồi! Và hôm nay, ngày birthday của mẹ: 20-9! Con rất muốn mẹ có những hạnh phúc, vui vẻ trong ngày này. Con tâm sự với mẹ nhé: trong tất cả các ngày trong năm, con thích nhất là ngày birthday của con. Bởi vì thêm một tuổi con cảm thấy mình như lớn hơn, chững chạc hơn. Nhưng con lớn lên thì mẹ lại già đi. Đó là một định luật đã được định sẵn, mà đó là điều con không muốn vì con muốn mẹ ở mãi bên con, trong suốt cuộc đời…Nhân dịp sinh nhật mẹ, con cầu chúc mẹ luôn mạnh khỏe và trẻ, đẹp mãi mãi. Tất cả những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với mẹ yêu của con. Diễm Uyển.”

Hai mẹ con mình trên đất Mỹ. Một cuộc đổi đời. Những khó khăn rồi cũng sẽ qua đi. Lòng con yêu mẹ cùng sự cố gắng chăm chỉ học tập ở một ngôi trường hoàn toàn mới, làm mẹ thêm vững bước. Khó khăn, lo lắng, buồn phiền để một mình mẹ gánh chịu. Còn con, hãy vui tươi hồn nhiên bước tới con đường tương lai rộng thênh thang phía trước. Luôn luôn con là niềm tin yêu và hy vọng của cuộc đời mẹ.

Nơi đây xứ lạ quê người. Đất Mỹ rộng mênh mông. Đường đời muôn vạn nẻo. Lòng người cũng không biết thế nào? Xưa nay mẹ vốn là một người có rất nhiều nghị lực, vậy mà những ngày đầu tiên ở trên đất người, đôi lúc mẹ cảm thấy xuống tinh thần.

Rồi cũng như tất cả mọi dòng sông đều chảy, mẹ con mình sẽ quen dần với cuộc sống nơi đây. Những dòng tâm sự mẹ sắp nói, mẹ chỉ muốn trả lời câu hỏi của con: “Tại sao khi ở Việt Nam, mẹ không nói cho con nghe?”

o O o

Khi Sài gòn bị thất thủ, con chưa ra đời. Lúc đó thành phố vô cùng hỗn loạn. Người ta lo sợ, người ta kinh hoàng. Hình ảnh những cuộc đấu tố dã man của Cộng Sản 1954, hình ảnh mồ chôn người tập thể Tết Mậu Thân ở Huế, hình ảnh những trận mưa pháo kích vào nhà dân thành phố Sài gòn …còn in sâu trong lòng người dân miền Nam. Làm sao người ta không trốn chạy?

 

Bố con cùng Bộ chỉ huy từ Đà lạt di chuyển về Sài gòn với toàn bộ sinh viên trường Đại học Chiến Tranh Chính Trị. Trong khi các cấp chỉ huy của nhiều đơn vị tìm đường tháo chạy, thì bố con cùng ông chỉ huy trưởng chạy tới chạy lui ở một đơn vị quân đội đầu đường Phan Đình Phùng để lo nơi ăn chốn ở cho các sinh viên. Cuối cùng khi tan hàng thì không còn đường nào đi được nữa. Tìm được một chiếc tàu, cả nhà kéo nhau lên chờ. Đúng lúc Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng. Bọn cách mạng 30 nổ súng, phải quay trở lại.

Cộng sản kêu gọi Sĩ quan, binh lính, công nhân viên chức chế độ cũ tập trung học tập cải tạo rồi sẽ được trả quyền công dân sống bình thường như mọi người dân trong một nước Việt Nam hòa bình thống nhất. Viễn ảnh vẽ ra êm đềm, tươi đẹp quá! Mọi người nô nức kéo nhau đi học! Hạ sĩ quan ba ngày, cấp úy mười ngày, cấp tá một tháng. Những lớp học chính trị cho hạ sĩ quan diễn ra khắp tổ, phường, quận trong thành phố với bầu không khí tự do thoải mái. Mỗi người cầm một mảnh giấy chứng nhận của Ủy Ban Quân Quản, được là một người công dân mới, được làm việc với khả năng.

Cấp tá, cấp tướng được kêu gọi ghi danh học tập cải tạo đem theo đồ ăn trong một tháng và tập trung vào ngày 15 tháng 5 1975. cấp úy ngày 23 tháng 6, và đem theo đồ ăn mười ngày. Ai cũng hăng hái. Có người giải ngũ lâu rồi, muôn có quyền công dân cũng đã khăn gói lên đường.

Từ Nam chí Bắc, mọi người cùng tưởng rằng đất nước đã thống nhất, chính quyền cách mạng khoan hồng, xóa bỏ hận thù.

Tất cả đều lầm to. Họ nói nhưng chẳng thi hành. Món quà lừa bịp đầu tiên của Cách Mạng: Qua mười ngày, không có ai trở về. Một số vợ con cấp úy kéo đến trường Taberd, nơi trình diện học tập, bị xịt nước giải tán. Gia đình cách mạng, có người được cho vào trường gặp ban quân quản. Cán bộ tỉnh bơ trả lời: “Chúng tôi chỉ nói mang lương thực đủ mười ngày chứ chúng tôi có nói đi học tập mười ngày đâu?” Một sự đánh lừa về chữ tinh vi trong các công văn mà ngay cả cán bộ, đảng viên miền Bắc cũng không ngờ tới.

Cả nước bị mắc lừa. Hàng triệu gia đình ly tán. Người đi chẳng còn mong có một ngày về. Trong thời gian đó, mẹ cùng toàn thể giáo viên chế độ cũ phải theo học chính trị. Kết tội “đếquốc Mỹ”, lên án “ngụy quân ngụy quyền” Sài gòn. Cán bộ bắt viết bản thu hoạch có nghĩa là nhận thức về bài học và bắt nhận tội. Giáo viên ngơ ngác không biết mình tội tình gì? Cán bộ vạch ra: nào là trực tiếp tuyên truyền cho nền giáo dục nô dịch,ngoại lai. Nào là gieo rắc vào tâm hồn của lứa tuổi thanh niên lòng yêu nước, đi lính cầm súng bắn lại cách mạng. Nào là dạy những bài học xuyên tạc lịch sử ca tụng Gia Long, Phan Thanh Giản… Nào là dạy những bài văn ca ngợi đất nước Hoa Kỳ…

Viết bài thu hoạch xong, từng người phải đọc bài của mình. Có nhiều người vừa đọc vừa khóc vì uất ức.

Không khí nặng nề bao trùm lớp học mở đầu cho cuộc sống mới mà cách mạng đem đến cho toàn dân miền Nam. Giấy bút học sinh cho mua thật ít, trong khi sơ yếu lý lịch thì từng chồng, từng chồng chuyên chở về trường. Kê khai lý lịch triền miên. Họp tổ phê bình, tự phê bình hàng tuần. Giờ dạy học thì không bao nhiêu mà ngồi lại họp hành bới móc nhau thì nhiều. Ganh nhau từ mớ rau, miếng thịt. Nhất là sau mỗi đợt thi đua. Tha hồ tìm cách hạ nhau.

Chính sách Cộng Sản là như vậy. Họ quản lý thật chặt bao tử của mỗi người. Họ dùng người này tố cáo người kia. Rất nhiều người nhẹ dạ, cả tin hay vì sẵn có tính tị hiềm nên đã bị lôi cuốn vào guồng quay mới, hại bạn bè, thân thuộc, hại chính gia đình…

Có đổi đời, mới biết nhận xét rõ ràng người tốt xấu. Nhưng rồi chính người ấy dần dần cũng chẳng được “cách mạng” tin dùng. Bằng cách này hay bằng cách khác họ cũng bị đào thải.

Ở các tỉnh nhỏ, vợ con của các sĩ quan cấp úy, nhất là cấp tá, đều bị buộc cho thôi việc. Riêng Sài gòn, trung tâm của vùng mới được giải phóng, báo chí quốc tế lui tới thường xuyên. Để chứng tỏ có chính sách khoan hồng nhân đạo, chính quyền Cộng sản không dám cho vợ sĩ quan nghỉ việc. Nhưng mẹ cũng đã chịu trăm nghìn cay đắng.

Mẹ không được đứng trên bục giảng. Chỉ làm những công việc không tên của văn phòng. Cuối cùng được giữ chức quản thủ thư viện. Cũng may, mẹ không phải giảng những bài văn sặc máu căm thù, dạy cho học sinh những gương anh hùng chống Pháp, chống Mỹ của XHCN. Đất nước Việt Nam rừng vàng biển bạc, con người Việt Nam “ra ngõ cũng gặp anh hùng”…Tất cả chỉ là sự lừa bịp những đầu óc mê muội, ngu đần của một số người. Đáng thương hại biết bao! Chỉ vì Cộng sản tàn ác quá, chỉ vì Cộng sản bưng bít quá, nào ai biết miền Nam ra sao, thế giới tiến bộ như thế nào?

Năm tháng vẫn trôi qua. Năm tháng triền miên khổ cực cả về tinh thần lẫn vật chất. Con bắt đầu đi học trường mẫu giáo. Hàng ngày dẫn con đi bộ trên con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm cây cao bóng mát này để nghe đâu đây một chút ngậm ngùi, luyến tiếc.

Con bé nhỏ xinh xắn, đáng yêu, được các chị Trưng Vương mỗi buổi sáng tập thể dục ngoài đường, vỗ tay chào đón, gọi cho con cười để được nhìn thấy hai cái lúm đồng tiền thật sâu trên đôi má bầu bĩnh, để nhìn đôi mắt đen lấp lánh ánh sao.

Các bạn của con có bố đón đưa. Con chỉ có một mình mẹ. Con bắt đầu để ý và hỏi mẹ “Bố con đâu?” “Con ngoan, học giỏi bố sẽ về.” Cuối tuần những phiếu “Bé ngoan” con hớn hở cầm ra khoe mẹ. Nỗi vui bừng lên để rồi nỗi buồn chùng xuống. Ngày về của bố con xa vời vợi. Một năm nhận được vài cái phiếu gửi quà thăm nuôi.

Mỗi lần có phiếu, chắt chiu dành dụm để mua đủ ba ký lô lương thực. Chạy chọt mãi mới mua được vài chục viên thuốc trụ sinh. Những lần gửi quà đầu tiên, ba bốn giờ sáng đã phải có mặt. Rời khỏi nhà khi trời còn tối. Ánh đèn đường lạnh lẽo. Thân nhân người tù cải tạo ngồi sắp hàng bốn, dài suốt từ đường Nguyễn Du đến đường Thống Nhất, chờ được vào bưu điện Hai Bà Trưng. Hai ba tên bộ đội vác súng canh chừng. Mỗi lần dồn hàng, không được đứng lên, nhích dần, nhích dần trong tư thế ngồi xổm…

Tới xế trưa nắng gắt mới được vào phòng. Nào đã yên thân. Khám xét từng cục kẹo, viên thuốc bổ, thức ăn khô. Hạch hỏi, nạt nộ. Đóng gói theo đúng khuôn mẫu của nhà bưu điện đưa ra, kể cả cách thắt dây chung quanh. Có người khóc ròng vì làm không đúng cách, tháo ra thắt vào mãi mà vẫn bị đuổi ra.

Cực như thế đấy, vậy mà vẫn mong nhận được một phiếu gửi quà. Bọn cán bộ cho người bán ra những phiếu đó. Mẹ cũng mua với giá rất đắt nhưng cứ hai gói thì bố chỉ nhận được một. Luật lệ “rừng” nên biết thưa kiện ai đây?

Dưới sự chăm sóc của ông bà ngoại, con mỗi ngày một lớn. Bố con ngày về biền biệt và có thời gian chẳng có tin. Trong các trại gia binh, cư xá quân đội, bọn cán bộ ra vào nạt nộ, tán tỉnh vợ con người tù cải tạo. Nhất là những bà vợ sĩ quan xưa nay chỉ nội trợ, ở nhà dễ bị quyến rũ nhất. Đủ mọi hoàn cảnh đưa đẩy họ tới con đường phụ bạc chồng con.

Mẹ con mình ở cùng nhà với ông bà ngoại, nhà riêng khu tốt nên không có cảnh cán bộ vào hạch sách. Hơn nữa mẹ làm việc tại trường, mọi sinh hoạt tách rời khỏi phường khóm nên yên thân hơn.

Rồi bố con nằm xuống trong lao tù. Một tang vong, mẹ đưa con đi vượt biên cùng gia đình bác Dung. Mẹ đi vào mùa hè, thời gian được nghỉ nên nhà trường không biết. Nếu có biết, họ cũng làm ngơ vì không có chứng cớ. Dù bị nghỉ việc mẹ cũng chẳng cần. Trước đây vì bố con là sĩ quan cao cấp chế độ cũ bị Cộng sản cầm tù, mẹ phải làm việc cho nhà nước để được yên thân và hy vọng có một ngày nào chồng được tha về sớm. Vượt biên ba lần, bị tù mất hai lần, không còn tiền, còn sức mà đi nữa, mẹ đành trở về với trường học.

Thời gian đó, miền Nam chính thức tham gia vào phong trào thi học sinh giỏi toàn quốc. Cán bộ phòng giáo dục rất kỳ thị lý lịch nên mẹ không được mời dạy. hàng ngày mẹ vẫn làm bạn với những cuốn sách trong thư viện. Nhưng cấp trên đầu óc đỡ hẹp hòi hơn. Cho nên sở giáo dục chọn mẹ làm chủ nhiệm lớp học sinh giỏi thành phố. Trường trung học sư phạm mời mẹ về dạy cho giáo sinh. Kể từ đó, cấp dưới là phòng giáo dục mới giao công tác này cho mẹ.

Liên tục mấy năm liền, học sinh của mẹ đa số đạt danh hiệu học sinh giỏi toàn quốc. Trong không khí tưng bừng tổng kết thi đua, mẹ ngồi dưới hàng ghế hội trường nhìn lên sân khấu xem diễn viên của mình đang được tuyên dương. Không bao giờ mẹ được khen thưởng. Mẹ chỉ là viên gạch lót đường cho người ta đi tới.Nhưng mẹ không buồn. Mẹ không muốn cũng như không thế nào mẹ đứng vào hàng ngũ của họ được. Ngay cả sau này, khi giữ chức vụ Hiệu phó chuyên môn của một trường tiên tiến trong thành phố, giữa mẹ và họ vẫn có một ranh giới rõ ràng. Đền bù lại, mẹ có rất nhiều tình cảm quý mến trân trọng của học sinh, phụ huynh và các thầy cô giáo.

Thời gian này các chuyên gia Liên Xô về trường tuyển chọn học sinh năng khiếu múa ba-lê. Qua nhiều trường với hàng ngàn học sinh cùng lứa tuổi, con được trúng tuyển. Mẹ tìm hết cách để được rút tên con ra. Nhất là về vấn đề lý lịch. Nhưng cũng vì điểm này mà chính chuyên gia Liên Xô đích thân chọn lựa và can thiệp để có đúng tài năng đi du học.

Khi mời lên tiến hành làm hồ sơ, Ủy ban nhân dân quận đã thuyết phục mẹ cho con đi và giữ mẹ ở lại đất nước. Mẹ sẽ được hưởng mọi quyền lợi như những cán bộ khác nếu mẹ rút đơn xuất cảnh. Lúc đó, việc ra đi đã có vẻ khó khăn, nhưng mẹ vẫn không làm theo ý họ.

Và rồi họ cho mẹ nghỉ việc. Ngay năm học đó, phong trào thi học giỏi đi xuống, mẹ được mời dạy trở lại. Mẹ không nhận lời, mẹ đã ra ngoài buôn bán nhỏ, nhưng cuộc sống khá hơn khi còn dạy học rất nhiều.

Mẹ không muốn nói cho con nghe về quá khứ của Ba, về những nỗi nhọc nhằn bấy lâu mẹ phải gánh chịu, bởi mẹ không muốn con có mặc cảm thua kém bạn bè. Người Cộng Sản giáo dục con em họ phải căm thù giai cấp, nhưng với con mẹ không muốn tâm hồn con hoen ố vì thù hằn. Sống làm sao cho lương tâm trong sáng, sống làm sao cho nhân hậu bao dung. Đừng như những người Cộng sản hẹp hòi, độc đoán, ích kỷ, trả thù…Hãy nhìn cuộc sống chung quanh bằng cái nhìn hiểu biết thông cảm. Hãy sống thế nào để không hổ thẹn với lương tâm.

Một mai đây, người Cộng sản sẽ tỉnh ngộ để nhận rõ tội ác đã đầy đọa cả một dân tộc Việt Nam.

Con vẫn lớn lên trong tình thương của mẹ, của bà để bước vào lứa tuổi thanh xuân.

Mớ kiến thức trong sách vở nhà trường hoàn toàn xa vời, trái ngược với thực tế chung quanh. Sau khi nhà nước có quyết định “đổi mới tư duy”, không khí tự do hơn, giáo viên bắt đầu giải đáp cho học sinh những thắc mắc về cuộc sống xã hội diễn ra từng ngày. Không còn đổ tại hậu quả chiến tranh, không còn đổ lỗi cho “Mỹ Ngụy” được nữa rồi… Hòa bình đã lên tới con số 15 năm, vậy thì lỗi tại ai?

Trong một bài thu hoạch của một môn khoa học xã hội thực nghiệm cải cách giáo dục: “Em hãy nói lên những điều tâm đắc nhất qua bài học,” mẹ còn nhớ cô hiệu phó VTT đã mời mẹ đến trường cho xem bài viết của con. Chỉ vỏn vẹn có một câu ngắn: “Rất tiếc qua bài học em không tiếp thu được điều gì có ích lợi cho cuộc sống.” Nếu cô hiệu phó không phải là bạn mẹ, nếu gia đình mình không có giấy xuất cảnh thì chắc chắn việc học của con sẽ bị lôi thôi.

Nhỏ hơn con vài tuổi, thời 1954, để tránh nạn Cộng sản mẹ được ông bà ngoại dẫn di cư vào Nam. Sàigòn không phải là nơi sinh trưởng nhưng là nơi mẹ đã lớn lên, trưởng thành và bước vào đời, nên mẹ yêu Sài gòn. Nhưng quê hương miền Bắc có bao giờ phai mờ trong tâm tưởng? Hôm nay đây, lịch sử đang tái diễn. Gần 40 năm sau, mẹ dẫn con trên bước đường lưu lạc. Xứ sở này đứng đầu thế giới. Cả một chân trời mở rộng đang chờ đón con. Con đường trước mắt thênh thang lắm. Hãy vững tin và cố gắng bước tới. Đừng phụ lòng bố con ở dưới suối vàng. Và con ơi, con đừng quên nhé! Phía bên kia bán cầu còn có một đất nước nghèo nàn nhỏ bé: Việt Nam. 

 

Tà áo dài, nỗi buồn không nguôi

Sau một thời gian ngắn nghỉ hộ sản, trong gia đình, ai cũng giục tôi đến Sở Giáo dục trình diện để được dự lớp học tập cải tạo của ngành giáo dục.

Đây là nơi tôi đã từng làm việc sao? Tất cả đổi khác quá! Hình như người cũ còn lại cũng như người mới đến đều đang “thi đua” xóa bỏ quá khứ, nhất là về hình thức. Đồ đạc: bàn, tủ đổi vị trí. Đó đây chỏng trơ vài chiếc ghế. Con người: nam giáo viên bỏ áo ngoài quần, chân đi dép lẹp xẹp. Nữ giáo viên quần đen cũ bạc, sơ-mi màu tối, đa số bà ba. Một hình ảnh nhỏ của Sài gòn là đây! Sau ngày 30 tháng Tư 1975, tà áo dài như biến mất trong thành phố.

Những người bạn đồng nghiệp thân mến của tôi mới thoáng đây mà sao xa cách quá. Có người nhìn tôi bằng đôi mắt xa lạ, có người nhìn bằng ánh mắt xót xa, rồi vội quay đi. Tôi nhìn xuống tà áo dài lạc lõng. Giữa những cán bộ cách mạng ngồi để chân lên ghế, giữa những đồng nghiệp quần áo cố làm ra vẻ lôi thôi, lếch thếch, tôi cảm thây lúng túng, cầm tờ giấy chứng nhận đã trình diện, tôi vội đi như chạy ra đường. Tà áo dài vướng víu đôi chân…Không biết số phận mình sẽ ra sao? Có còn được đi dạy nữa hay không? Hay cũng sẽ như chiếc áo dài này, người ta sẽ bỏ đi?

Mỗi ngày tôi đến Sở Giáo dục, ngồi một góc ít người nhìn thấy nhất. Ngoài sân, một số cán bộ ngồi chồm hổm dưới đất trò chuyện. Không xa, một chiếc ghế đá dưới bóng cây xanh không có người ngồi. Phía cổng, các cán bộ gặp nhau, nam nữ bắt tay nhau, vỗ vai tự nhiên, thân mật của Đảng, không hợp với phong cách Á Đông. Những hình ảnh đó xa lạ đối với ngành giáo dục cũ của chúng tôi.

Chưa được học tập chính trị. Không có việc gì làm, thật chán nản. May sao anh trưởng ban sinh hoạt học đường cũ của tôi giao cho công việc phân phối cờ cho các trường. Tôi gặp lại nhiều người quen. Chị Dương Chi, giáo sư Anh văn, người đẹp Trưng Vương và Văn Khoa ngày xưa, giờ đây tơi tả. Cô Thu Oanh, dạy tôi Vạn Vật ở Trưng Vương. Còn đâu hình ảnh cô ngày mới ra trường óng ả trong áo lụa mềm mại? Trong chiếc áo cánh màu trắng cũ, quần đen bạc màu, trông cô tiều tụy làm sao! Cô reo lên:

“Nga đó sao? Cô vẫn nhận ra em, tuy em không còn là một cô học sinh láu lỉnh của cô hồi nào.”

“Em sợ bị đuổi cô ạ! Chồng em là sĩ quan cấp tá…”

Cô nhìn tôi ái ngại. Một người đàn bà trẻ đi vào phòng, tà áo dài tha thướt.

“Ai đó em? Sao lại mặc áo dài…”

Tôi khẽ trả lời cô Oanh: “Mai San, một trong những cán bộ tiếp quản Sở giáo dục đấy.”

“Giá cán bộ nào cũng như cô ấy có phải lịch sự không em nhỉ?”

Chỉ khoảng một tuần sau, Mai San đến sở làm việc trong bộ quần áo màu xanh bộ đội. Mọi người thì thầm: Mai San vừa bị kiểm điểm là thoái hóa, tư sản hóa.

Không một văn bản, không một lời nói cấm mặc áo dài, nữ giáo viên Sài gòn không ai bảo ai, cùng từ giã trang phục quen thuộc của dân tộc. Một chút phấn hồng trên má, một chút son đỏ trên môi, cũng không ai dám tô. Làm sao làm cho mình xấu đi để hòa đồng với những người cách mạng.

Lác đác một vài giáo viên lớn tuổi mặc áo dài đến trường. Nhưng rồi cũng bỏ ngay vì lạc lõng, vì phải ngồi chia từng kí lô cá nhỏ, cắt từng miếng thịt heo. Tôi chợt nhớ đến câu trả lời về chiếc áo dài của anh tôi từ miền Bắc vào thăm.

“Có ai cấm không được mặc áo dài đâu? Chỉ sợ các cô giáo nực nội khi sắp hàng đi mua nhu yếu phẩm, vướng víu chở xe đạp về trường. Rồi lại còn phân phối nữa chứ. Không lẽ mặc áo dài mà ngồi chia cá, chặt thịt?”

Đúng vậy! Chúng tôi không thể mặc áo dài được nữa. Nào khiêng 50 kí lô cá, hàng trăm kí lô thịt mỗi tháng, nào lao động quét dọn tổng vệ sinh trường lớp, đường phố. Rồi hết học tập này đến học tập khác, liên miên ngày tám tiếng ngồi học. Áo dài làm chi nữa?

Tủ áo dài mỗi ngày một vơi dần, vơi dần… cắt thành áo ngắn. Đổi thành mớ rau, kí gạo. Hình ảnh chiếc áo dài hầu như bị lãng quên. Chợt một lúc nào đó, thả hồn về dĩ vãng, tôi bâng khuâng thương nhớ chiếc áo dài. Nét đẹp thuần túy của Việt Nam. Sao người của chế độ xã hội chủ nghĩa lại làm mất đi vẻ đẹp dịu dàng ấy?

Mười năm sau, bỗng có một ngày…Các cán bộ ở phòng giáo dục về trường trong chiếc dài. Ai cũng tròn xoe mắt nhìn. Các chị mỉm cười, thản nhiên: “Đổi mới tư duy rồi, phải mặc áo dài. Ban Giám hiệu phải làm gương để giáo viên noi theo…”

Trong buổi họp hàng tuần, giáo viên nhao nhao phản đối. Nào: “Còn đâu nữa, tất cả áo dài của chúng tôi theo nhau cùng đồ đạc ra chợ trời cả rồi!” Nào: “Cuộc sống khó khăn, lo bữa ăn chưa xong tiền đâu may áo?” Nào: “Vướng víu đạp xe tới trường hàng 10 cây số, mặc áo dài làm sao được?” Nào: “Coi trên TV, các đồng chí lãnh đạo nhà nước ta có đồng chí nam nào bỏ áo vào trong quần đâu, có đồng chí nữ nào mặc áo dài đâu, mà bắt chúng tôi mặc?” v.v… và v.v…

Ban Giám hiệu năn nỉ: “Trường ta tiên tiến cấp thành phố, nhiều phái đoàn đến tham quan học tập. Chúng tôi mong các bạn cố gắng khắc phục mọi khó khăn để nhà trường thêm tươi đẹp.”

Sau đó chúng tôi đi đến thống nhất ý kiến: Chỉ mặc áo dài trong các ngày lễ, ngày có khách đến thăm trường. Hàng năm trong Ngày Nhà Giáo Việt Nam 20-11, Ủy Ban Nhân Dân, thay vì tặng phong bì đựng tiền, tặng một xấp vải cho mỗi thầy cô giáo. Chúng tôi nhận mà không may. Có người bán lấy tiền bù đắp vào đồng lương ít ỏi. Cũng có người nhường cho con, cũng có người kêu là nếu may cùng một lúc mặc giống nhau cứ như… viện mồ côi!

Từ đó, mỗi lần thấy cô giáo mặc áo dài, thấy thầy giáo mặc áo bỏ trong quần tới trường, là học sinh biết hôm đó không phải là buổi học bình thường. Ngay trong một bài văn của một em học sinh cấp 1, chín tuổi với đề bài “Tả cô giáo em,” cũng nêu rõ ý này với giọng văn rất ngây thơ, chân thật:

“Ngày thường cô giáo em mặc chiếc quần đen, áo sơ mi cũ. Nét mặt cô rầu rầu, nụ cười vắng trên môi. Khi có các thầy cô giáo sinh về dự giờ, cô giáo em luôn luôn mặc chiếc áo dài màu xanh, tuy không mới nhưng trông cô em đẹp lắm. Cô tươi cười với tất cả mọi người…”

Nhưng rồi chẳng bao lâu, giáo viên không quen hình thức, trình diễn, nên tự ý không mặc áo dài nữa. Ban giám hiệu có kêu gọi, bắt buộc quá thì chúng tôi cũng tuân theo. Khi khách ra về, hoặc buổi lễ kết thúc, ai cũng mang áo ngắn theo để thay. Rồi quét dọn trường lớp, họp tổ chuyên môn soạn giáo án, ra về đèo trên xe đạp nào sách vở, nào nhu yếu phẩm: đường, đậu xanh, nước mắm…

Một buổi chiều, tôi đang chấm bài trong phòng giáo viên, chị hiệu trưởng đến ngồi cạnh:

“Nga ạ, em được chị em trong trường quí nể. Em nên động viên các chị em mặc áo dài đi dạy nhé! Mình thua các trường trong quận 3 rồi.”

Tôi im lặng, giả vờ loay hoay với xấp bài của học sinh. Chị hiệu trưởng cầm cuốn biên bản họp tổ lên xem, chờ đợi câu trả lời của tôi.

Nhìn chị, tôi thoáng thương hại. Là một giáo viên nằm vùng, chồng dạy trường Huỳnh Khương Ninh, vào rừng, ra vào Sài gòn hoạt động cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Chị xông xáo khoảng ba năm đầu, rồi từ chán nản khi nhận rõ mặt thật của chế độ, nhận rõ sự lừa bịp của Hà Nội, lợi dụng miền Nam. Đất nước thống nhất rồi, những người của Mặt Trận đều mất chức, mất quyền…

“Em có nêu vấn đề này ra nhưhg đa số phản đối vì lý do đơn giản không có tiền.”

Tôi muốn nói với chị: “Cách đây mười năm, chính chị đã phê bình tôi còn đầu óc tư sản: mặc quần tây. Chính chị đã giục tôi cắt tà áo dài ra may áo ngắn. Tôi muốn nhắc cho chị nhớ đến có hàng hai buổi học tập chính trị mà đồng chí Trưởng phòng miền Trung trọ trẹ dành để lên án cách ăn mặc, trang điểm của giáo viên Sài gòn.”

Tôi còn nhớ giờ giải lao, một số đông giáo viên quần đen, áo trắng, áo nâu, áo xám đã vây quanh “đồng chí” Trưởng phòng phản đối. Họ già rồi, sắp về hưu có bị nghỉ việc cũng đành. Mặc như thế này mà còn bị la cả bao nhiêu buổi. Vậy đồng chí còn muốn chúng tôi mặc như thế nào nữa? Đề nghị gửi văn bản về trường nói rõ cách ăn mặc của giáo viên. Đồng phục màu gì? May như thế nào? May ở đâu? (Thời gian đó các nhà may lớn nhỏ đều bị đóng cửa. Nhà may quốc doanh chưa thành lập)

Nhưng nhìn chị lặng lẽ cúi mặt, tôi không nỡ nói. Nhiều hôm thấy chị đến trường với tà áo dài, chỉ có một mình, tôi thấy thương hại làm sao! Đã qua rồi men chiến thắng với nét mặt huênh hoang, tự mãn. Chị đang dần dần trở thành kẻ chiến bại.

Chúng tôi vẫn nuối tiếc. Hình ảnh một cô giáo đứng trên bục giảng với tà áo dài tha thướt chỉ còn lại trong giấc mơ. Thực tế không cho phép chúng tôi trở lại ngày xưa. Vất vả quá, cực nhọc quá trong miếng ăn. Ngoài giờ dạy, về nhà ăn vội bát cơm, nam giáo viên đi đạp xích lô, chạy xe Honda ôm, nữ giáo viên bê tủ thuốc lá nhỏ ngồi lề đường bán… Thôi giã từ, giã từ dĩ vảng.

Vào những tháng đầu năm 1989, một, hai số báo Tuổi TrẻPhụ Nữ đăng bài của một độc giả ca ngợi chiếc áo dài của phụ nữ Việt Nam, cảm nghĩ của Trịnh Công Sơn về tà áo trắng của nữ sinh miền Nam. Cùng những đề nghị học sinh đến trường nên mặc đồng phục. Tiếp đó là cuộc thi hoa hậu áo dài do thành đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh kết hợp với tuần báo Phụ Nữ tổ chức. Phải chăng tất cả đều nằm trong chủ trương kế hoạch của Đảng bộ Thành phố.

Bao nhiêu nhà thơ ca ngợi tà áo dài Việt Nam, nhưng không có bài thơ nào đầy hình ảnh bằng bài thơ của Nguyên Sa:

Có phải em mang trong áo bay
hai phần gió thổi một phần mây,
hay là em gói mây trong áo…

là bài tôi ưng ý nhất.

Rồi sau đó chỉ có các ban ngành khác như hàng không, công ty quí kim vàng bạc của nhà nước, công ty xuất nhập khẩu… các nữ nhân viên đều mặc áo dài đi làm. Ngành giáo dục vì nghèo nên đành im lặng.

Thời gian đang là mùa hè. Các nhà lãnh đạo ngành giáo dục đợi đến đầu năm học, kêu gọi phụ huynh học sinh đóng góp. Trên chỉ thị, dưới nhà trường rất ngại ngùng khi phải cất lên lời nói xin tiền trong buổi họp với phụ huynh học sinh.

Các bậc cha mẹ học sinh đã quá quen thuộc đến chán ngấy lên với khẩu hiệu “Nhà nước và nhân dân cùng làm” bắt đóng góp hết tiền này đến tiền khác. “Còn quá chủ trường ngày trước bóc lột học sinh!” Bực tức nhà nước thì nói như vậy, nhưng ngày học đầu tiên, ông chủ tịch hội cha mẹ học sinh cùng cô thủ quỹ nhà trườngvẫn ngồi trên một cái bàn kê ở hành lang lớp học đợi các em đến đóng tiền cho thầy cô giáo. Một thông báo lan rộng khắp nhà trường: ngày nào đến trường, nữ giáo viên cũng phải mặc áo dài. Nam giáo viên tiến thêm một bước: phải mang giầy. Nếu ai không thi hành sẽ bị trừ vào điểm tác phong, đạo đức cách mạng.

Phong trào thi đua diễn ra liên tục, kết thúc vào những ngày lễ lớn để biểu dương, khen thưởng, tổng kết vào cuối năm để quyết định danh hiệu “giáo viên dạy giỏi”, nâng bậc lương.

Vấn đề cơm áo, bắt buộc giáo viên phải tuân theo. Giáo viên chạy nhốn nháo để làm sao có áo dài. Đi mượn, đi xin bà con, bạn bè, đi mua đồ cũ ở chợ trời.

Trong khi các vợ con của cán bộ mặc trên người những loại vải đắt tiền, thay đổi mỗi ngày, thì đa số các giáo viên xoay qua xoay lại vài ba chiếc áo đi xin chật cứng hoặc rộng thùng thình, vài ba tấm áo rẻ tiền của nhà nước bán hoặc cho không. Sau giờ tan học, những người mặc loại áo này còn ở lại trường ngồi chờ đến phiên được giữ thêm xe đạp của các trung tâm dạy lớp đêm: Anh văn, Toán, Lý Hóa, một trong những kế hoạch “ba lợi ích” nâng cao đời sống giáo viên.

Nếu có một ngày bạn trở về Việt Nam, đi chơi đường phố Sài gòn, nhìn thấy những chiếc xe Cup Honda mà người lái là những cô gái mặc áo dài óng ả, sang trọng thì đừng có nghĩ đó là những giáo viên. “Người giáo viên nhân dân”, “người kỹ sư tâm hồn” là những danh hiệu cao quí mà Đảng và nhà nước đã gọi nhà giáo chúng tôi, chỉ lọc cọc trên những chiếc xe đạp cũ, mang trên người tấm áo dài bằng lụa rẻ tiền. Xót xa, buồn tủi nhất là người dân Sài gòn, ai trông thấy cũng biết đó là giáo viên. 

 

Một thoáng hương xưa, Hà Nội đó

Sài gòn, tháng Giêng 1990

Anh chị thân yêu,

Thế là em và cháu Diễm Uyển đã được phỏng vấn. Thế là đại gia đình chúng ta lại sắp được gặp nhau.

Sáu năm rồi anh chị, các cháu xa Sài gòn. Xa Việt Nam. Em không viết hai chữ “xa nhà” như cách đây hơn một phần tư thế kỷ em đã từng viết khi anh chị du học tại Mỹ. Bởi ngày ấy còn có ngày về. Ở đây em muốn nhấn mạnh “chuyến ra đi lịch sử” của anh chị vào một ngày tháng Năm năm 1983 . Khi chuyến phi cơ của hãng Air France đã cất cánh cao ra khỏi không phận Việt Nam và trên vòm trời tự do nào đó, khi ấy anh chị mới có những giây phút nhớ về quê hương. Ở cái nơi khốn khổ vừa rời bỏ còn có bao nhiêu ngưòi ruột thịt, bạn bè thân yêu, bà con hàng xóm… Ngôi nhà yêu dấu, góc phố thân quen, con sông thân thuộc, cánh đồng lúa lấp lánh cánh cò của một thời thơ ấu… Những hình ảnh trong quá khứ hẳn đã theo đuổi anh chị trong suốt cuộc hành trình?

Em nhớ phi trường Tân Sơn Nhất hôm đó, người ta đi tiễn rất đông. Nhưng gia đình anh chị thì rất ít người. Bởi anh chưa được trả quyền công dân, bởi anh còn đang sống trong tình trạng công an địa phương quản lý. Họ có thể bắt anh lại bất cứ lúc nào. Anh ngồi ở một góc khuất nơi bậc cầu thang. Xa xa là các bạn anh: Thu, Cung, Lộc…không dám đứng gần. Chỉ có gia đình mình đứng vây quanh chị và ba cháu Hào, Ly, Ti. Người ta bịn rịn muốn níu kéo thời gian. Nhưng cùng lúc lại muốn nhanh chóng chia tay…

Sáu năm, thời gian đốì với người ra đi có thể là ngắn, nhưng với người ở lại thì đằng đẵng kéo dài. “Cali có gì lạ không” anh chị? Em chờ mong được đọc những tin tức bên ngoài, về anh chị em gia đình chúng ta, về bạn bè Trưng Vương cũ của em… Nói chung là cuộc sống của xã hội Hoa Kỳ để em chuẩn bị tinh thần bước tới và dễ dàng hòa nhập.

Tiễn anh chị đi, em mơ ước có một ngày mình cũng được bắt đầu từ phi trường quen thuộc này. Những năm sau, em cũng được “hân hạnh” đi, lại nhiều lần. “Hân hạnh” vì em không phải bị tra tấn cực khổ mấy ngày đêm trên tàu Thống Nhất, “hân hạnh” vì em đã tìm được chỗ “chạy” vé máy bay. Chung quanh em, toàn những cán bộ đi công tác (hay kiếm cớ đi chơi?). Chỉ có một vài người dân Sàigòn cũ. Gần đây nhất em ra Bắc xin giấy xuất cảnh.

Những chuyến bay này, đối với em cũng “lịch sử” vô cùng, phải không anh chị? “Lịch sử” hơn cả là em giám giao mạng sống của mình cho một hãng hàng không lạc hậu nhất trên thế giới! Gần đây, máy bay Việt Nam bị rớt luôn. Những chiếc máy bay cổ lỗ, đáng lẽ cho vào viện bảo tàng được rồi, mà cứ nay “đại tu” mai “tiểu tu” mãi. Chính những phi hành đoàn, những kỹ sư kiểm tra sửa chữa trong phi trường đã tiết lộ: Họ cũng rất lo sợ, nhưng đành phó thác cho số mệnh! (Bây giờ người Cộng sản cũng rất duy tâm.)

Em có trong tay giấy xuất cảnh là cả một bất ngờ. Nó đến với em sau gần mười năm chờ đợi, tưởng chừng như đã tuyệt vọng: mớ hồ sơ của mình, không biết giờ nó nằm ở xó nào? Hay đã trở thành “những giấy tờ được thanh lý” bán ký lô cho hàng ve chai?

Tinh cờ gặp Ngọc ri tai: “Cứ việc ra Hà Nội mà xin xuất cảnh. Ngoài đó xét rất dễ dàng, nhanh chóng.”

Thế là chỉ với một xấp hồ sơ nhẹ tênh em bay ra Hà Nội.

Từ trên cao nhìn xuống, sông Hồng như một giải khăn màu đỏ uốn éo mềm mại vắt trên vai Hà Nội. Cây cối xanh thẫm, hồ nước xanh lơ. Hà Nội êm ả, dịu dàng. Cảm giác êm ả, dịu dàng ấy mất đi ngay khi em đặt chân xuống sân ga quốc tế Nội Bài. Họ gọi là “sân bay quốc tế” để phân biệt với phi trường Gia Lâm nhỏ bé ngày nay dành cho máy bay quân sự.

“Quốc tế” gì mà chỉ lèo tèo vài ba chiếc máy bay cũ của Liên xô. Nhà cửa xây cất sơ sài. Phòng chờ lộn xộn, ngổn ngang bàn ghế. Nhà vệ sinh…. Ôi! Bẩn vô cùng. Quầy bán đồ lưu niệm, những mặt hàng và cách trình bày không che giấu được sự nghèo nàn.

Xe của hãng hàng không nhồi nhét người như cá hộp. Bà già, trẻ con chậm chân lên sau ráng mà đứng. Đàn ông, con trai tỉnh bơ ngồi hút thuốc, ba hoa nói chuyện Sài gòn. Trên tay, trong lòng mỗi người lỉnh kỉnh những ống đèn nê-ông, quạt máy, đồng hồ treo tường quả lắc…

Đi gần một giờ, ô tô mới nặng nhọc về tới trụ sở hàng không bên bờ hồ Hoàn Kiếm. Xe cũ. Đường xấu. Kẹt cầu.

Vừa đậu bến, xích lô, xe đạp giành dựt khách. Ngọt ngào đó nhưng nếu không thuê, chưa quay lưng đã bị nghe những lời riếc móc, chửi thề.

Mười năm trước ra đây, mười năm sau trở lại, cảnh vật vẫn không có gì thay đổi. Phố nhỏ. Xe đông. Sợ nhất là xe chạy vô trật tự, mạnh xe nào xe nấy chạy, không biết luật lệ là gì. Xe đụng nhau không ai thèm nhìn, người lỡ bước không ai thèm giúp. Đúng là “sống chết mặc bay!” Tội nghiệp cho Hồ Gươm thơ mộng năm này qua năm khác phải chứng kiến bao cảnh đau lòng.

Sáng hôm sau, em ôm tập hồ sơ đến Bộ Nội vụ, số 40A Hàng Bài. Đi qua đi lại trước số nhà 40A mà cứ tưởng mình lầm. Chẳng có ai canh gác. cổng vào mái cong cong. Dù rêu phong phủ đầy nhưng vẫn còn mờ nhạt màu xanh, màu đỏ. Chiếc sân nhỏ lát gạch vuông đã mòn. Có lẽ xưa kia đây là một ngôi chùa? Em rụt rè đi vào dãy nhà thấp bé bên tay mặt. Một người đàn ông đứng tuổi thò đầu ra cửa sổ hỏi: “Đến có việc gì?” Em trả lời: “Tôi ở miền Nam ra, xin giấy xuất cảnh.”

Cũng chẳng buồn nhìn, người đó chỉ tay: “Ngồi đợi ở phòng cuối cùng kia kìa.”

Đã có vài người đến trước. Bẩy giờ rưỡi làm việc mà mãi 8 giờ cô công an đeo kính trắng mới đủng đỉnh bước vào. Mở ngăn kéo này, mở cánh cửa tủ kia, cô vẫn chưa bày xong chiếc bàn làm việc. Chiếc ga- mên cơm cô hết xếp ở ngăn tủ dưới lại lôi ra đặt ở ngăn tủ trên…

Một lúc, cô nhìn đám “khách” nhoẻn miệng cười. Gần mười lăm năm sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, lần đầu tiên em nhận được một nụ cười từ một nhân viên ngành công an! Cô ta hỏi thăm nơi ăn, chốn ở và giới thiệu…nhà khách Bộ Nội Vụ. Giá rẻ hơn khách sạn bên ngoài. Cô lúi húi ghi chép mãi mới xong vài tờ chứng minh nhân dân. Rồi cô vừa đan vừa tán chuyện gẫu.

Cà kê dê ngỗng một hồi lâu mới thấy bốn thanh niên còn rất trẻ, mặt mũi khá sáng sủa, điệu bộ quan trọng bước vào. Tất cả đều rất lịch sự, hỏi cung như nói chuyện. Xem xét và nhận hồ sơ. Ghi giấy hẹn và trở lại vào hôm sau.

Sáng hôm sau, em có một tờ giấy hứa cho xuất cảnh. Hộ chiếu sẽ được gửi vào Sài gòn sau.

Tiếng lành đồn xa, từ đó dân Sài gòn ùn ùn kéo nhau ra Hà nội. Vé tàu hỏa, máy bay tha hồ lên giá. Khách sạn dập dìu du khách. Vừa được thăm Hà nội, vừa được giấy “hộ mạng”.

Trước tình hình đó, Công an Sài gòn dễ dãi hơn. Một văn phòng “dịch vụ” lo xuất cảnh ra đời ngay cạnh trụ sở Nguyễn Trãi. Cũng lại từng đó bộ mặt Công an của “Sở quản lý người nước ngoài và xuất nhập cảnh Thành phố” ở đường Nguyễn Du, nhưng thái độ tiếp khách niềm nở hơn. Muốn được nói chuyện, phải mua một phiếu hẹn 500 đồng. Tới ngày giờ hẹn, thân chủ đến trình bày tình trạng hồ sơ của gia đình mình. Thỏa thuận giá cả trong đó gồm vé máy bay khứ hồi, tiền ăn ở khách sạn mười ngày, tiền xăng đi lại khi ở Hà nội…Tất cả còn đắt hơn là tự mình ra Hà nội.

Đa số những người miền Nam, những người già thường ký hợp đồng với “Dịch vụ”. Những gia đình di cư 1954, còn nhiều họ hàng thân thuộc muốn về thăm lại quê hương thì tự ra Bắc lo liệu lấy. Một “dịch vụ” xuất cảnh cũng xuất hiện ngay tại Hà Nội. Trước khi tới 40A Hàng Bài, phải qua “dịch vụ” này. Trong miền Nam, có thể liên lạc bằng giấy tờ và gửi chi phiếu bằng đường bưu điện. Tất nhiên giá cả rẻ hơn Sài gòn nhiều. Ai cũng biết rằng Hà nội – Sài gòn đang tranh giành mối lợi lớn về vấn đề xuất cảnh.

Em may mắn là một trong những người đi trước, chỉ tốn kém tiền vé máy bay. Còn hiện nay, từ lúc có giấy xuất cảnh cho đến lúc lên danh sách chuyển qua Thái Lan, chờ phỏng vấn, phải mất ít nhất là 1 triệu đồng (5 chỉ vàng). Hồ sơ mới nộp thì gấp mười lần tiền.

Em biết anh thích nghe chuyện Hà Nội, bởi khi sắp đi Pháp, anh đã ra quận xin phép về thăm quê hương. Lý do anh không có quyền công dân, không có tên trong hộ khẩu. Xã hội này có những thủ tục, luật lệ thật là kỳ quái. Công an thành phố cấp giấy xuất cảnh cho một người đi nước ngoài, công an phường, quận không cấp giấy phép cho chính người đó được về thăm quê hương. Cho nên lá thư này, em hy vọng sẽ nói lên được một vài nét nhỏ về Hà Nội, một thành phố mang tiếng là thủ đô, là “trái tim của cả nước”, mà vô cùng lạc hậu, nghèo nàn.

Anh cũng chẳng nên tiếc làm gì. Một Việt kiều về Việt Nam, được bạn bè khuyên nên đi thăm Hà Nội một chuyến, không sẽ ân hận một đời. Khi trở lại Sài Gòn, Việt kiều tuyên bố: “Không đi thăm Hà Nội, ân hận một đời. Thăm rồi thấy ân hận cả mười đời”.

Ngày còn bé, mỗi lần ra bờ hồ, ăn một đĩa thịt bò khô chua cay, ngòn ngọt, mút một cây kem mát lạnh tận đáy lòng, nghe tiếng chuông tàu điện leng keng giục giã…sao mà thích thế! Bây giờ những chiếc xe bán thịt bò khô không thấy đâu, người bán kem cũng không còn. Chỉ còn đó chiếc tàu điện già nua như một chiếc thùng hình khối chữ nhật xập xệ biết đi. Khung tàu bằng sắt đã hoen rỉ, bao năm rồi nó không được khoác một chiếc áo sơn mới. Cửa sổ chắp vá bằng những mảnh gỗ thâm đen, mục nát. Cái thùng cũ bẩn ấy nặng nhọc bò từ phố này sang phố khác. Có khi đứng ì ra vì nhà máy điện trục trặc kỹ thuật.

Hàng Ngang, Hàng Đào…những dãy phố tưng bừng hoa lệ ngày xưa chỉ còn thấy trong giấc mơ. Dù mấy năm nay nhà nước đã cho tự do buôn bán, nhưng hàng hóa rất lộn xộn, chắp vá từ những người đi nghiên cứu, du học, “xuất khẩu lao động” về, từ những “con buôn” vì những loại người này tác phong, lời nói kinh khủng lắm. Còn đâu những giai nhân của phố Hàng Đào bẽn lẽn, dịu dàng khi có khách đến mua hàng? Em không thể chịu được các bà, các cô Hà Nội bây giờ ra đường với bộ đồ hoa sặc sỡ quần nọ, áo kia. Chửi thề, nói tục không biết ngượng miệng. Không biết người xưa chửi mất gà ra sao, chứ các cô Hà Nội ngày nay chửi nhau rất thần sầu. Lớp lang, vần điệu (tục tĩu) nghe rợn người. Thanh niên thì lấc cấc, nham nhở, nháo nhâng. Những người của Hà Nội ngày xưa còn rất ít, họ sống khép kín trong nhà.

Về danh lam thắng cảnh Hà Nội, em chỉ thích nhất có Hồ Gươm. Mặc dù “liễu rủ lê thê” không còn buông xõa quanh hồ nhưng vẫn giữ được nét đẹp tươi mát, dịu dàng. Đền Ngọc Sơn cổ kính, với mái ngói rêu phong, nép mình trong đám cây xanh, cầu Thê Húc vẫn sơn mầu đỏ. Trong đền thờ một xác rùa rất lớn nằm trong tủ kính. Hương khói tàn lạnh tự bao giờ? Dưới hồ, lâu lâu vài con rùa to nhỏ nổi lên. Người ta bu lại xem rất đông. Họ kháo nhau: Có con mang trên mai chữ “Mã”. Đây là một cách chơi chữ để chọc quê “đảng ta”. Rùa chữ Hán là Quy. Có chữ Mã trên lưng là “Quy Mã”, sắp tới đây người Việt Nam được tự do qua Mỹ. Hoặc đọc là “Mã quy” thì có nghĩa là Mỹ sẽ qua, Mỹ sẽ trở lại Việt Nam!

Chùa Một Cột nhỏ xíu, khiêm nhường ở trong khuôn viên lăng Hồ Chí Minh đồ sộ. Chùa đã bị phá hoại nhiều lần vì chiến tranh, được xây cất lại như một thứ đồ chơi đặt trên một vũng nước cạn, không thể gọi là hồ. Có thể dưới con mắt của em ngày còn nhỏ, nhìn sự vật nào cũng thấy to lớn. Bây giờ tuổi đời chồng chất, trở lại chốn xưa thấy cảnh nào cũng nhỏ bé, bình thường.

Gò Đống Đa, như một mô đất hơi cao. cỏ cây xơ xác, thiếu bàn tay chăm sóc giữ gìn. Các chùa chiền còn hoang tàn hơn. Cổng chùa đóng im ỉm, cánh cửa tróc sơn, gỗ bong lồi lõm. Trong chùa, cỏ dại thi nhau mọc. Mấy năm gần đây, chỉ những ngày rằm và mùng một âm lịch cổng chùa mới mở cho Phật tử vào cúng lễ, tụng kinh. Chùa nào cũng mang dấu vẻ hoang phế, lạnh lẽo. Nhà thờ lớn cũng lạnh lùng khép kín. Tưng bừng chăng chỉ có ngày lễ Giáng Sinh…

Biết đến bao giờ mới khôi phục lại một Hà Nội ngày xưa? Chắc em đã làm anh chị buồn lòng, thất vọng? Thôi hãy quên đi những hoang tàn, đổ nát của Hà Nội. Em sẽ cho anh chị nếm những quả vải Hưng Yên thơm phức, vải bán từng túm mười quả cho dân miền Bắc. Người miền Nam quen mua cả kí lô. Hết mùa vải là đến mùa nhãn. Nhãn bó thành từng bó một trăm trái, không thơm như nhãn miền Nam nhưng cùi dầy, trắng nõn bọc ngoài chiếc hột bé tí ti. Ăn mới giòn ngọt làm sao!

Lần này, vì có giấy xuất cảnh, em đã ở Hà Nội thật lâu. Đã cuối mùa hè, không khí oi bức dịu dần… Chợt một buổi sáng tỉnh dậy, em cảm thấy lành lạnh. Đứng trên ngôi nhà cao tầng của khu tập thể, nhìn xa xa sương khói mờ ảo. Và rồi nắng lên, bầu trời xanh biêng biếc. Một không gian màu xanh bao la vô tận. Nắng vàng như mật ong, mềm mại như một tấm lụa mỏng phủ trên cành cây, ngọn cỏ. “Ôi! Mùa thu đến, mùa thu đến!” Mùa thu của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn, Từ Linh. Nhưng (lại “nhưng” nữa!) không thấy bóng dáng một tà áo xanh “mà anh trót yêu” trên phố phường Hà Nội. Màu trời xanh, màu nắng vàng, những màu sắc này em đã thấy ở đâu? Em nhớ rồi, Đà Lạt. Saigòn thì không có mùa thu.

Mùa thu phải nói tới cốm, hồng. Trong khu bán hoa quả, màu đỏ của trái hồng nổi bật giống như một cô gái mặc áo màu rực rỡ đứng giữa đám người nghèo khổ. Vỏ hồng bóng, cứng đủ để giữ chất bột mềm, ngọt bên trong. Hồng ngâm là một loại hồng vỏ màu xanh ngả màu úa vàng, ăn giòn và ngọt thanh. Với kỹ thuật ngâm hồng vào nước tro, người ra ngăn không cho hồng chín đỏ.

Em tìm mãi mới ra được một bà hàng cốm bán rong. Gánh cốm nhẹ tênh trên vai bà cụ. Dân Hà Nội làm gì có tiền mà ăn cốm. Loại quà rất xa xỉ chỉ dành cho cán bộ cao cấp. Khi thấy em hỏi bao nhiêu một kí, bà cụ tưởng mình nghe lầm. Màu xanh nhạt của cốm hòa hợp với màu xanh đậm của những tấm lá sen lót trên mẹt tre tạo thành một màu xanh mát mắt, mát lòng. Cốm đầu nia đắt nhất. Những hạt cốm nhỏ, săn mà dẻo, màu xanh tươi hơn, đẹp hơn, giống như màu xanh của cánh đồng lá mạ. Hái lúa nếp còn non mới về, rang vừa chín rồi giã trong cối đá. Sàng, sẩy bằng nia. Những hạt cốm nhỏ nhất sẽ dồn về phía đầu chiếc nia tre là những hạt cốm ngon nhất.

Em vừa nhón tay bốc vài hạt cốm nếm thử, vừa nghe bà cụ nói về làng Vòng, một làng chuyên làm cốm nổi tiếng ở vùng ngoại ô Hà Nội. cốm bán được gói trong lá sen. Mùi thơm của cốm và mùi thơm của lá sen quyện vào nhau. Vị ngọt tự nhiên, hương thơm nhẹ nhàng. Tuyệt vời!

Em tiếc không có dịp về làng Ngọc Hà, quê hương của anh, một làng trồng hoa nổi tiếng sát cạnh Hà Nội. Đối với chế độ xã hội chủ nghĩa, hoa là một thứ xa xỉ phẩm. Nhưng trên hè phố Hà Nội, thỉnh thoảng em vẫn bắt gặp một gánh hàng hoa, Ngày rằm hay mồng một âm lịch, những gia đình còn giữ nền nếp của đạo Phật, vẫn thường có một đĩa hoa xinh xinh bầy trên bàn thờ. Mộc lan cánh màu xanh ngả vàng nhàn nhạt, ngọc lan thon dài trắng muốt, hoa hồng cánh nhỏ nhụy vàng…Tất cả đều ngan ngát hương thơm.

Em muốn chấm dứt lá thư này với một thoáng hương xưa còn sót lại của Hà Nội ngàn năm văn vật. Để chúng ta còn có một chút gì để nhớ, để hy vọng và để đợi chờ…

 

Anh ơi, anh cứ đợi

Vân Tiên cõng mẹ chạy ra
Đụng phải cột nhà cõng mẹ chạy vô.

Năm năm rồi, cái đám đông đó xuất hiện rất đều đặn tại công viên đường Thái Văn Lung, trước cửa sở ngoại vụ thành phố, trước Dinh Độc Lập mỗi ngày một nhiều.

Không ai bảo ai, họ đến đây vào những ngày thứ Hai, thứ Tư, thứ Sáu mỗi tuần. Hầu hết là đàn ông bốn mươi tuổi trở lên. Có mái tóc muối tiêu, có mái tóc trắng như cước. Gương mặt hằn vết nhăn của những năm tháng sống gian khổ trong tù. Ban đầu chỉ lác đác năm, mười người. Rồi cứ thế tăng lên, tăng lên…Tụm năm tụm ba trên ghế đá, dưới bãi cỏ xanh úa chen nhau.

Bọn tôi là những dân cựu nữ sinh Trưng Vương, cùng một hoàn cảnh như nhau: làm nghề dạy học, có chồng “học tập cải tạo tốt được tha về”. Đứa dạy văn, đứa dạy toán, bỗng dưng trở thành một bọn “mất dạy”“vô lương” (không được dạy học, không có lương bổng) kể từ khi nộp đơn đăng ký xuất cảnh, bị đuổi ra khỏi nghành giáo dục. Cả lũ xúm nhau lại thầu căn-tin trường học, bán buôn cho qua ngày.

Cứ vào buổi sáng những ngày chẵn của mỗi tuần là bọn tôi xính vính cả lên vì các đấng mày râu còn bận ra công viên đường 30-4 (Thống Nhất) nghe ngóng. Có lên tiếng phàn nàn thì các ông hoặc phe lờ, hoặc cố làm xong những việc nặng, rồi vội vàng xách xe đi hoặc dọa:

“Các bà cứ ở đó mà lo nhặt bạc cắc. Người ta đi hết rồi mới ôm mặt khóc”.

Các bà nhao nhao phản đối:

“Ơ ! Bọn tôi không sợ đâu nhé! ở đây vài ba bước là vào Tân Sơn Nhất. Chỉ sợ các ông kẹt lại mà thôi!”

“Ôi ! Việc nhà không lo. Có được vác ngà voi đâu mà ngày nào cũng xách xe đi?”

Ấy thế mà khi các ông về, các bà tranh nhau hỏi:

“Có tin gì mới không?”

“Hôm nay, sở ngoại vụ có gì lạ không?”

Trong căn phòng dành cho căn-tin nóng nực, chật chội, chúng tôi vừa làm, vừa nói chuyện “ra đi”. Chỗ này múc chè, chỗ kia gọt dứa, chỗ nọ xếp kẹo, bánh, ô mai, chuẩn bị cho giờ học sinh ra chơi. Miệng nói tay làm. Dù biết tin vịt nhưng hình như ai nấy vẫn đặt vào một chút hy vọng.

“Thông cáo cho những người học tập cải tạo ra đi được niêm yết trong sở ngoại vụ. Chỉ có một ngày thôi rồi lại gỡ bỏ ngay”.

“Hôm nay anh được vào đó hay sao mà nói mạnh thế?”

“Thật đấy mà, hồi nãy tôi gặp một anh bạn. Chính ông anh rể của cô em dâu của ông bạn tôi chen vào đến nơi. Đông quá xô đẩy nhau, rơi mất cả kính!”

“Xạo quá! Rơi mất kính đeo còn đọc được? Mà cái ông anh rể của cô em dâu của ông bạn anh ở chỗ nào vậy…?

Thế là chúng tôi lại rũ ra cười. Cười cho đời bớt sầu, bớt khổ.

Rồi các đấng mày râu cổ hình như dài hơn vẫn kiên nhẫn…dạo chơi công viên đường Thống Nhất. Các bà không còn tha thiết nghe chuyện ra đi nữa. “Tướng Vét-Xi qua Việt Nam rồi tướng Vét-Xi về Mỹ” cũng mặc kệ. Thật ra chỉ là vấn đề hài cốt người Mỹ. Dân Sàigòn kháo nhau: họ có bàn về vấn đề cho tù nhân chính trị được ra đi. Quả quyết đến nỗi cứ làm như có người “phe ta” ngồi trong bàn hội nghị không bằng! Vậy sao đài BBC, VOA, chẳng nói gì thế nhỉ? Tối nào, sáng nào mà các “gia đình ngụy” không nghe tin tức của “những đài ngoại quốc phản động” này? Giọng nói của những xướng ngôn viên từ nửa vòng trái đất xa lắc mà sao gần gũi biết bao!

Nhưng bọn công an cán bộ của các ủy ban nhân dân quận, không biết ở Trung ương Đảng thành phố, tỉnh lỵ… có chỉ đạo gì hay không mà tùy theo “sự vận dụng sáng tạo linh hoạt của mỗi địa phương” đã in ra hàng loạt mẫu hồ sơ. Có nơi, cán bộ đến từng nhà thành phần “cải tạo viên được tha về còn trong tình trạng địa phương quản lý giáo dục tiếp” để thăm hỏi, nhắc nhở làm hồ sơ, chụp ảnh. Những tờ giấy màu đen, lợn cợn, in ấn bôi bác, bán với giá cắt cổ. Nào mẫu đơn, nào sơ yếu lý lịch (ba đời!), nào chụp ảnh. Những giấy phim và nước ảnh cứ như thế kỷ xa lắc nào. Người có tiền hăm hở làm. Người không tiền chạy đi vay mượn. Có người hớn hở. Có người dè dặt. Hy vọng của cả nhà, tương lai của con cháu đặt vào những trang giấy đen thui. Những hồ sơ đó được xếp vào xó nào? Không còn nghe nói đến. Hy vọng rồi thất vọng…

“Thời gian như xóa mờ thương nhớ”, rồi người ta cũng quên đi vì mải lo sinh kế. Cái đám đông tại công viên trước dinh Độc Lập một ngày một thưa dần, thưa dần…

Một năm, hai năm, ba năm…bỗng một ngày cái đám đông đó lại xuất hiện vào năm 1988. Và lần này thì đông hơn, có đến cả ngàn người. Có bóng công an, họ lại chạy từ công viên này sang công viên kia, băng qua con đường Thống Nhất, phân tán cho bớt đông.

Trụ sở để phái đoàn Mỹ phỏng vấn mười năm về trước ở Thủ Đức nay di chuyển về Tân Sơn Nhất. Thời gian đó muốn vào được sân bay Tân Sơn Nhất phải có giấy tờ hợp lệ (giấy lãnh quà, vé máy bay, giấy ra vào phi trường…) Dân Sàigòn tìm cách đút lót tài xế chuyên chở của sân bay để vào TSN. Hoặc khai đúng tên ông A, bà B ở trong cư xá, mong bọn công an hất đầu cho vào là dắt xe chạy lẹ. Đứng chờ phái đoàn Mỹ ở chân cầu thang, nơi dẫn lên lầu làm việc. Xe của phái đoàn vừa tới, vội chạy ra đón. Chưa kịp good morning, có khi gặp một viên chức Mỹ biết nói tiếng Việt Nam, thông cảm với tâm trạng của người đang chờ đợi vào đề ngay:

“Ông (bà) có hồ sơ gì thì đưa ngay. Tôi không hứa giải quyết được nhưng sẽ mang về Bangkok vào cuối tuần”.

Một thời gian ngắn, trụ sở phỏng vấn chuyển về số 184 Nguyễn thị Minh Khai (Pasteur cũ). Rất gần với hai công viên trước dinh Độc Lập (ngày nay đổi tên là dinh Thông Nhất). Cho nên “cái đám đông” đó tràn tới Pasteur.

Các đấng mày râu xôn xao, nôn nóng. Hai bên chính phủ Mỹ Việt đã ký kết rồi. Tù nhân chính trị được ra đi. Những ai được ra đi? Ra đi như thế nào? Bao giờ được ra đi?…Bàn tán sôi nổi. Danh sách Mỹ xin là 11 ngàn người thì danh sách có tên ai? Gia đình của họ có ở trong đó không? Ôi ! Cái danh sách đầy bí mật. Hầu như trong lòng mỗi người tù chính trị đều mơ ước tên mình có trong danh sách này. “Tôi đi trước, anh đi trước”, “Bà ưu tiên một, ông ưu tiên hai…”, “Bốc ngang”. Những người đã làm hồ sơ xin xuất cảnh, “bốc dọc” – những người có tên trong danh sách chính phủ Mỹ xin… Thôi thì cứ tự do, tự mình sắp xếp chỗ đi của mình.

Đường bay Tân Sơn Nhất – Mã Lai Á đã thành lập, đệ thất hạm đội Mỹ một ngày đẹp trời nào đó sẽ “bốc” tất cả. Một cuộc di cư vĩ đại hơn cả năm 1954… Nôn nao quá!

Một danh sách dài tràng giang đại hải tên những người được ra đi đợt đầu, được tung ra bán. In bằng máy điện toán đàng hoàng. Nhân dân bảo nhà nước làm tiền. Nhà nước đưa tin kẻ xấu phá hoại. Thiên hạ hốt bạc. Quả thật, tôi chỉ nghe thấy có danh sách đó chứ chưa được hân hạnh nhìn! Nhân viên cục tình báo hàng đầu, rồi đến sĩ quan cấp tướng, tá, “đi học” mười năm trở lên,.v.v.. Một số tướng lãnh không có tên trong danh sách vì nghi ngờ thiên Cộng, tham nhũng trước đây…

Mỗi ngày một chuyện được truyền tai. Ai cũng cuống quít cả lên. Chạy xuôi, chạy ngược. Mua đơn, thảo đơn, Ủy ban nhân dân Phường ký mỏi tay, thu tiền mệt nghỉ. Các quán photocopy người ra, kẻ vào, hoạt động không ngừng. Bưu Điện thành phố chật cứng người (cũng hốt bạc!) gửi hồ sơ sang Bangkok. Ai cũng mong mình có tên trong danh sách chuyến đi đầu tiên. Những mẩu tin cắt từ báo ở hải ngoại gửi về. Hội Gia đình Tù Nhân Chính trị của bà Khúc Minh Thơ đang lo chuẩn bị đón tiếp. Vừa bước xuống máy bay, người tù chính trị đã có một chùm chìa khóa nhà, xe hơi, một phong bì 500 đô của Đức Giáo Hoàng và quà cáp của các cơ quan hội thiện nguyện…

“Sao bạn biết?”

“Bạn tôi nhận được thư của người thân bên Mỹ viết về. Có chụp cả một dãy nhà cho người tị nạn. Gia đình ít người ở nhà hai phòng đáng giá 54 ngàn đô, gia đình nhiều người ở nhà bốn phòng, giá 120 ngàn đô”. Số tiền có số lẻ đàng hoàng tăng thêm phần chính xác.

Ôi! Những ngày khốn khổ sắp qua. Giấc mơ tuyệt vời sắp thành sự thật!

Ngoài công viên đông vui, nhộn nhịp. Trong gia đình sôi nổi, ồn ào. Bán đồ, bán đạc, may quần, sắm áo. Có người bán cả nhà đi ở nhờ, chờ đợi ngày Mỹ bốc. Con cái nghỉ học. Đứa đi học nấu ăn, uốn tóc, đứa lo đi chơi, đi học nhẩy đầm…Bà đi sửa mắt, sửa môi. Cô đi lột da, sửa mũi… Có ông đã bị vợ bỏ từ khi xếp áo đi tù, mặc cho nhà nước nuôi nấng, giáo dục. Ngày trở về lủi thủi, cô đơn. Được người bạn gái ngày xưa an ủi. Tính làm hôn thú để “rước nàng về dinh thự Hoa Kỳ” thì bà vợ cũ đột nhiên xuất hiện, không chịu ký vào giấy tờ ly dị.

“Tôi có hôn thú với anh. Anh phải cho tên tôi vào đơn xin xuất cảnh!”

Mỗi ngày đến ăn vạ chồng, và đến đánh ghen tại nơi làm việc của cô bạn thân. Người chồng không chịu nổi đành giơ tay tuyên bố…đầu hàng.

“Thôi thôi! Bà về với chồng mới của bà đi! Tôi xin rút đơn, tôi không đi đâu cả”.

Mỗi ngày một tin. Mỗi ngày một chuyện. Cười ra nước mắt. Ngày lại ngày qua đi. Chẳng thấy gì. Lại lang thang ở công viên đường Thống Nhất, lại lếch thếch đạp xe tới nhà nhau hỏi:

“Có tin gì mới không?”

“Nguyễn Du, Nguyễn Trãi gọi bổ túc hồ sơ chưa?”

“Sở ngoại vụ đã gửi giấy tới chưa?”

Lắc đầu. Và lại nhìn nhau thở dài, thất vọng.

Nhưng, tại công viên đường Thái Văn Lung, trước cửa sở ngoại vụ, người ta vẫn cứ đến, người ta vẫn cứ chờ, cứ đợi…


 

Chuyện từ cuộc chiến 20 năm cũ

 

HẾT

-Lê Thy đánh máy lại từ sách tác giả tặng tháng 6/2004-
 nguồn https://baovecovang2012.wordpress.com/

Những bài mới đăng

Mùa Thu Lá Bay