Joomla!

Ngôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lực

 

Nhân sự việc các quan chức văn hoá cấm hát 5 ca khúc được sáng tác trước 1975, tôi có cảm hứng chia sẻ cùng các bạn vài cảm nhận của tôi về dòng nhạc bị vùi dập đó. Câu hỏi đặt ra là tại sao những bài ca đã được sáng tác hơn nửa thế kỉ trước mà đến nay vẫn còn được giới thưởng ngoạn, từ bình dân đến lịch lãm, đều ưa thích. Tôi nghĩ đến 4 lí do và cũng là đặc điểm của những ca khúc trước 1975 ở miền Nam: tính nhân văn, tự do tư tưởng, tính phong phú, và giàu chất nghệ thuật.

 

Thứ nhất là đậm chất nhân văn. Nếu nhìn lại những bài ca trước 1975 ở miền Nam và so sánh với những sáng tác ở miền Bắc, tôi nghĩ ít ai có thể bác bỏ tính nhân văn trong các sáng tác ở trong Nam. Khi nói “nhân văn”, tôi không chỉ nói đến những sáng tác về thân phận con người, mà còn kể cả những sáng tác thuộc dòng nhạc lãng mạn, trữ tình, nói lên cảm xúc của con người trước thời cuộc.

Người ta thường phân nhóm những sáng tác của Trịnh Công Sơn thành hai nhóm tình yêu và thân phận, nhưng tôi nghĩ cách phân nhóm đó cũng có thể áp dụng cho nhiều nhạc sĩ khác như Từ Công Phụng chẳng hạn. Tình yêu không chỉ là tình yêu đôi lứa, mà còn tình yêu quê hương đất nước (“Tôi đi xem để thấy những gì yêu dấu Việt Nam“) và giữa người với người “Tôi yêu bác nông phu đội sương nắng bên bờ ruộng sâu“). Thỉnh thoảng cũng có một vài bài có chất “máu” (như câu “nhưng thép súng đang còn say máu thù” trong bài “Lính xa nhà”), nhưng cho dù như thế thì câu kết vẫn có hậu “Hẹn em khi khắp trời nở đây hoa có tôi về”. Có thể nói rằng cái đặc tính nhân văn và nhân bản của những ca khúc trước 1975 ở miền Nam là yếu tố mạnh nhất để phân biệt so với các ca khúc cùng thời ngoài Bắc vốn lúc nào cũng có nhiều mùi máu và súng đạn.

Cái đặc điểm nổi bật thứ hai là tính nghệ thuật trong các ca khúc.Khi nói “nghệ thuật” tôi muốn nói đến những lời ca đẹp, giàu chất thơ, và những giai điệu đẹp. Những bài ca mà ngay cả từ cái tựa đề đã đẹp. Những Dấu tình sầu, Giáng ngọc, Mùa thu cho em, Nghìn trùng xa cách, Tuổi biết buồn, Thà như giọt mưa, Giọt mưa trên lá, Hạ trắng, Diễm xưa, Ướt mi, và biết bao tựa đề có ý thơ và sâu lắng như thế đã đi vào lòng người thưởng ngoạn. Thử so sánh những tựa đề của các sáng tác cùng thời ngoài Bắc như Bài ca năm tấn, Em đi làm tín dụng, Chào anh giải phóng quân, chào mùa xuân đại thắng, Người mẹ miền Nam tay không thắng giặc, v.v. thì chúng ta dễ dàng nhận ra sự khác biệt.

Lời ca trong những ca khúc trước 1975 ở miền Nam cũng là những lời đẹp. Tôi thán phục những nhạc sĩ như Phạm Duy, Trầm Tử Thiêng, Hoài Linh [không phải anh hề], Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Ngô Thuỵ Miên (và nhiều nữa) đã viết ra những lời ca đi vào lòng người. Không phải chỉ đơn giản nhân văn theo kiểu những ý tưởng trừu tượng trong sáng tác của Trịnh Công Sơn (ví dụ như “hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi“, hay “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau“), nhưng có khi đi thẳng vào vấn đề như Phạm Duy (“tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời“). Còn nhiều nhiều bài đã đi vào lòng người qua những lời ca đẹp và giản dị: “Hôm xưa tay nắm tay nhau anh hỏi tôi rằng: ‘Những gì trong đời ta ghi sâu vào tâm tư / Không tan theo cùng hư vô, không theo tháng năm phai mờ / Tình nào tha thiết anh ơi?“. Có những lời ca mà tôi nghĩ giới trẻ ngày nay có thể mỉa mai cười khẩy nói sến, nhưng tuổi trẻ thì thường chưa đủ lớn để cảm những câu như “Tình vui theo gió mây trôi / ý sầu mưa xuống đời / lệ rơi lấp mấy tuổi tôi / mấy tuổi xa người  / ngày thần tiên em bước lên ngôi đã nghe son vàng tả tơi.” (Tình khúc thứ nhất, nhạc Vũ Thành An, lời thơ Nguyễn Đình Toàn). 

Không biết từ thuở nào mà tôi đã mê bài Trộm nhìn nhau của Trầm Tử Thiêng và đã từng dự báo rằng bài này có ngày sẽ nổi tiếng. Thời đó, tôi mới về thăm nhà sau 20 năm xa cách, và nhìn người xưa, tôi thấy những câu “Ðôi khi trộm nhìn em / Xem dung nhan đó bây giờ ra sao / Em có còn đôi má đào như ngày nào” sao mà hay quá, hợp cảnh quá. Chỉ trộm nhìn thôi. Lời nhạc rất thơ. Mà, thật vậy, đa số những lời ca trong các sáng tác trước 1975 được viết ra như vẫn vần thơ hoặc phổ từ thơ. Người phổ thơ thành nhạc hay nhất là Nhạc sĩ Phạm Duy, được xem như là một “phù thuỷ âm thanh”. Chính vì thế mà âm nhạc trước 1975 có những lời ca sang trọng. Thời nay, trong môi trường những ca khúc dung tục, rất hiếm thấy những ca khúc có những lời ca đẹp như trước.

Lạ một điều là cũng là nhạc tuyên truyền (ở ngoài Bắc gọi vậy) hay nhạc tâm lí chiến (cách gọi trong Nam), nhưng những sáng tác trong Nam thì lại được người dân nhớ và xưng tụng. Sau cuộc chiến, những bài gọi là “nhạc đỏ”, dù được sự ưu ái của nhà cầm quyền văn hoá, chẳng ai nhớ hay muốn nhớ đến chúng. Ngược lại, những sáng tác về người lính ở trong Nam thời trước 1975 thì lại còn lưu truyền và nuôi dưỡng trong lòng dân, dù nhà cầm quyền ra sức cấm đoán! Ngay cả những người lính miền Bắc cũng thích những bài hát về lính của các nhạc sĩ trong Nam. Tại sao vậy? Tôi nghĩ tại vì tính nghệ thuật và nhân bản trong những sáng tác ở miền Nam. Người lính, cho dù là lính cộng sản hay cộng hoà, thì vẫn cảm được những câu “Con biết xuân này mẹ chờ tin con / Khi thấy mai đào nở vàng bên nương” hay “Thư của lính, ba lô làm bàn nên nét chữ không ngay“. Những lời ca đó không có biên giới chính trị.

Đặc điểm thứ ba là tự do. Dù có kiểm duyệt, nhưng nói chung các nghệ sĩ trước 1975 ở miền Nam có tự do sáng tác. Không ai cấm họ nói lên nỗi đau và những mất mát của chiến tranh. Không ai “đặt hàng” họ viết những bài ca tụng lãnh đạo như ngoài Bắc. Thật vậy, nhìn lại dòng nhạc thời đó, chẳng có một ca khúc nào ca tụng ông Nguyễn Văn Thiệu cả. Có một bài ca tụng ông Ngô Đình Diệm, nhưng cũng chẳng ai ca vì nó được dùng trong mấy rạp chiếu bóng là chính. Thay vì ca ngợi “lãnh tụ” dòng nhạc miền Nam ca ngợi con người và dân tộc, nhưng cũng đồng thời nói lên nỗi đau của chiến tranh.

Trịnh Công Sơn viết hẳn một loạt “Ca khúc Da Vàng” (mà hình như cho đến nay vẫn chưa được phép phổ biến). Trong thời chiến mà họ vẫn có thể phổ biến những sáng tác không có lợi cho chính quyền. Những ca khúc như “Dù anh trở về trên đôi nạng gỗ / Dù anh trở về bằng chiếc xe lăn” chắc chắn không có cơ may xuất hiện trong âm nhạc miền Bắc thời đó (và ngay cả sau này). Một trong những ca khúc nổi tiếng nhất trong thời chiến có lẽ là bài “Kỉ vật cho em” (phổ thơ của Linh Phương) với những lời ca ray rứt, bi thảm: “Anh trở lại có thể bằng chiến thắng Pleime / Hay Đức Cơ, Đồng Xoài, Bình Giã / Anh trở về anh trở về hàng cây nghiêng ngả / Anh trở về, có khi là hòm gỗ cài hoa / Anh trở về trên chiếc băng ca / Trên trực thăng sơn màu tang trắng.” Nghe nói ca khúc này đã làm cho chính quyền VNCH rất khó chịu với nhạc sĩ.

Tiêu biểu cho tinh thần tự do sáng tác có lẽ là tự sự của Phạm Duy: “Tôi đưa ra một câu nói thôi: ‘Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi’ đất nước bơ vơ, nó rối bù đi thì tôi phải khóc thôi. Lúc nào mà đoàn kết thì tôi cười theo. Khóc cười theo mệnh nước. Cái xã hội mình nó rối tung lên như vậy thì làm sao mà mình …. thành thử tôi nghĩ rằng vấn đề là … Các anh yêu tôi thì nói là tôi có sự nghiệp hơi đầy đủ, hơi lớn một tí đấy, nhưng mà riêng tôi thì tôi thấy cho đến giờ phút này thì tôi hoàn toàn thất bại. Bởi vì đất nước đã thống nhất rồi mà lòng người thì không thống nhất, thành thử đại khái nếu mà tôi có chết đi thì tôi hãy còn gần như là tôi không được thỏa mãn.”

Cái tính tự do còn thể hiện qua một thực tế là chính quyền thời đó không cấm đoán việc phổ biến các nhạc sĩ còn ở ngoài Bắc. Những sáng tác của Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Đoàn Chuẩn – Từ Linh, v.v. đều được phổ biến thoải mái trong Nam. Ngay cả bài quốc ca mà chính quyền vẫn sử dụng bài “Tiếng gọi thanh niên” của Lưu Hữu Phước vốn là một người cộng sản. Ngược lại, nhà cầm quyền ngoài Bắc thì lại cấm, không cho phổ biến các sáng tác của các nhạc sĩ trong Nam hay đã vào Nam sinh sống.

Đặc điểm thứ tư của âm nhạc ngày xưa là tính phong phú về chủ đề. Khác với nhạc ngoài Bắc cùng thời tất cả dồn cho tuyên truyền và kêu gọi chiến tranh, các sáng tác trong Nam không kêu gọi chiến tranh nhưng yêu thương kẻ thù. Nhạc thời đó đáp ứng cho mọi nhu cầu của giới bình dân đến người trí thức, từ người dân đến người lính, từ trẻ em đến người lớn quan tâm đến thời cuộc, từ tình yêu lãng mạn đến triết lí hiện sinh, từ tục ca đến đạo ca, từ nhạc trẻ đến nhạc “tiền chiến”, từ nhạc tâm lí chiến (tuyên truyền) đến nhạc chống chiến tranh, nói chung là đủ cả. Không chỉ sáng tác bằng tiếng Việt mà còn trước tác hay dịch từ các ca khúc nổi tiếng ở nước ngoài để giới thiệu cho công chúng Việt Nam.

Tôi nghĩ 4 đặc điểm đó có thể giải thích tại sao những ca khúc dù đã được sáng tác hơn nửa thế kỉ trước mà vẫn còn phổ biến và được yêu chuộng cho đến ngày nay. Những cấm cản chỉ là biện pháp tuyệt vọng. Mai kia mốt nọ, nếu có người viết lại lịch sử âm nhạc, tôi nghĩ họ sẽ ghi nhận những sáng tác thời trước 1975 ở miền Nam là một kho tàng vàng son của âm nhạc Việt Nam. Như là một qui luật, những bài hát tuyên truyền thuần tuý, những bài ca sắc máu, những sáng tác kêu gọi giết chóc và hận thù sẽ bị đào thải, và thực tế đã chứng minh điều đó. Đó là những social infection, rất khó tồn tại trong lòng người thưởng ngoạn. Ngược lại, chỉ có những sáng tác đậm tính nhân văn, giàu nghệ thuật chất, và phong phú xuất phát từ tinh thần tự do thì mới tồn tại theo thời gian.

Ngôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lực

 

 

 

THAYNDN9

 

 

 

 

Trường Trung học Phan Châu Trinh xưa, ngày nay không còn nữa . Từ một ý đồ không minh bạch của một nhóm người, phòng ốc bị đập phá, cây cối trên sân trường bị đốn ngã ngổn ngang . Ngay sau biến cố 1975 có người đã đòi đổi thay tên trường .Và cũng sau biến cố 75 thầy trò tản mác muôn phương, người ra đi, kẻ ở lại …

Những người ở lại, học trò thì kẻ được tíếp tục học, kẻ không, thầy giáo cùng trong một cảnh ngộ, người được trở lại bục giảng, người đi công, nông trường …Tưởng chừng mọi sự đã thành mây khói.

 Nhưng không, phòng ốc tuy không còn, trường Phan Châu Trinh của một thời vẫn còn đó và còn lại thật nhiều. Trước hết còn lại cái DÂN KHÍ, cái TINH THẦN DÂN CHỦ Cụ PHAN CHÂU TRINH đã dạy cho chúng ta . Còn lại vui buồn của một thời, những tình cảm thân thương giữa thầy trò, giữa bè bạn. Còn lại những gắn bó với hàng cây bóng mát trong sân, với hành lang nắng rát chiều hè…

Từ ngày thành lập cho đến 75, MỘT THỜI PHAN CHÂU TRINH ấy, còn rất sinh động trong mỗi con tim của chúng ta., thầy và trò, những ai đã từng qua đó .

MỘT THỜI PHAN CHÂU TRINH hình thành bởi nhiều lớp học sinh đầy thiện chí và tài năng, nhiều lớp giáo sư tận tụy với chức nghiệp, nhiều lớp phụ huynh thương yêu con em mình… May mắn cho tôi được kề vai, sát cánh với thời kỳ ấy trong một thời gian gần bảy niên học và dưới đây một ít vui buồn tôi đã trải qua.

Tháng 10 năm 1956 tôi nhận được Sự vụ lệnh của Bộ Quốc gia Giáo dục đi nhận nhiệm vụ mới : Quyền Hiệu trưởng trường Trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng .

Đó là một thăng tiến trong nghề nghiệp . Nhưng thú thật tôi chẳng mấy vui. Nhận nhiệm vụ mới có nghĩa là phải từ bỏ cuộc sống yên lành và đầm ấm ở Huế . Nơi đây tôi đang dạy tại hai trường lớn, có tiếng tăm nhất ở miền Trung : trường Quốc Học và trường Đồng Khánh.

 
QH2

Các nhà giào Quốc Học trước cộng trường năm xưa 

DK

 Thầy cô giáo Collège Đồng Khánh trước cổng trường

Nghề nghiệp ổn định, sinh hoạt thoải mái, có nhà cửa sẵn, sống đầm ấm với đại gia đình giữa thành phố tôi sinh ra và lớn lên, tôi cảm thấy đã quá đầy đủ tuy tôi biết rằng cuộc sống ấy mang ít nhiều chất tiểu tư sản..

Rời Huế là rời bỏ hai ngôi trường tôi mến yêu, rời bỏ nơi tôi từng có biết bao kỷ niệm đẹp từ buổi còn thơ …

Tuy nhiên nhiệm sở mới không phải không có điểm hấp dẫn. Huế tuy êm đẹp, dịu dàng, nhưng phải thú thật phảng phất tính chất phong kiến, bảo thủ . Dù chưa biết mấy về Đà Nẵng nhưng vì Đà Nẵng là một thành phố cảng, tôi nghĩ cuộc sống ở đó hẳn cởi mở, phóng khóang. Đây không phải là một quan niệm tôi tự tạo ra để an ủi mình trước sự thể không thể từ chối lệnh của Bộ Giáo dục.

Thật ra tôi có quan niệm ấy từ lâu, từ khi biết qua lịch sử Hy Lạp. Tôi thích cuộc sống cởi mở và nền giáo dục phóng khoáng của Athens, mở rộng để đón nhiều luồng văn hóa và chẳng thích gì nền giáo dục khép kín và khắc khe đến sắt đá của thị quốc Sparta .

Sự khác biệt giữa Athens và Sparta là do vị trí địa lý và nề nếp sinh họat mà ra. Tôi tin rằng với Đà Nẵng tôi có thể tìm thấy một không khí phóng khóan và nhất là tinh thần dân chủ tiêu biểu bởi cụ Phan Châu Trinh.

Với tin tưởng đó tôi không còn mấy ngần ngại đi nhận việc ở một nơi tuy không xa  Huế lắm, nhưng lại là nơi tôi không có hơn một người quen thân .

Cuộc hội ngộ đầu tiên của tôi với trường Phan Châu Trinh không mấy khích lệ . Khác với Quốc Học và Đồng Khánh là những trường đã hòan thành, trường Phan Châu Trinh là trường đang phát triển , Tôi tự hỏi : Với tuổi đời còn ít, với khả năng hạn chế, có thể đảm đương việc phát triển trường không ?

Thật không ngờ thành phố Đà Nẵng, một thành phố lớn và họat động nhất của miền Trung, cho đến năm 1956 lại không có được một trường Trung học tương xứng .

Lúc tôi đến nhận việc, trường mới có một dãy nhà trệt gồm sáu phòng học và một phòng nhỏ bé ngăn làm hai: một phần là phòng hiệu trưởng, một phần là phòng giáo sư . Trong sáu phòng học lại có một phòng dùng làm văn phòng nên chỉ sử dụng được năm phòng để giảng dạy . Kiến trúc của trường trông giống một mái chùa hơn là một trường học. Dãy lầu bên phía trái (đứng phía trong trường nhìn ra) chưa hòan thành .

Sân trường và vòng rào còn quá sơ sài . Trơ trụi chưa có một bóng cây trên sân, trừ hai cây phượng lèo tèo trước phòng giáo sư. Bãi cát sân trường lồi lõm, có nơi đầy cỏ dại .Phía góc đường Nguyễn Hòang sân lõm xuống khá sâu so với mặt đường bên ngoài .

Vòng rào quanh trường chỉ là.mấy hàng kẽm gai đơn sơ, cột chống nhiều chõ xiêu ngã. Sát với rào gai, phía gần đường Nguyễn Hòang, một túp lều vãi poncho và các-tông xập xệ của hai vợ chồng ông Sáu lang bạt . Túp lều này về sau được dời qua đường Nguyễn tri Phương, sát với sân bóng rỗ, một thời gian rồi biến mất đi đâu không rõ .

Phía bên kia đường Nguyễn Hoàng là trường tiểu học Pháp cũ..Trường được giao lại cho trường Nam Tiểu học .Vì cách biệt nên trường Nam nhường cho Phan châu Trinh Mãi về sau năm 58 hay 59, theo lời yêu cầu của trường, ông trưởng ty công chánh, một phu huymh học sinh, cho đóng đọan đường Nguyễn Hòang thông với đường Nguyễn tri Phương thì ty Tiểu học Đà Nẵng bấy giờ mới giao hẳn phần trường tiểu học ấy cho Phan Châu Trinh . 

Vì chưa dùng đến và trách nhiệm không rõ ràng nên tình trạng  trường Phan Châu Trinh, phía trường tiểu học Pháp cũ, gần như hoang vu. Cây dứa dại mọc đầy, một nấm đất “sề sề”, cô dơn, được truyền là một mộ Hời . Những buổi trưa hè nắng gắt, tắc kè chay rộn ràng đi tìm nơi tránh nắng và những hố nhỏ chằng chịt khắp nơi .Vì có giếng nước sâu và sẵn bãi cát nên những người làm giá ở vùng lân cận đào bới hết chỗ này đến chỗ khác trên sân để ủ giá . Sau lúc thu họach giá họ để nguyên các hố như thế .

Tình trạng đào bới giảm dần  sau lúc gia dình tôi dọn vào ở dãy nhà này và ngưng hẳn sau lúc trường hòan thành sân bóng rõ, phòng thí nghiệm và sân vũ cầu . Nhân đây tôi xin nói đến một thiệt thòi của trường mà ít người biết để bổ sung thêm lịch sử xây cất của trường .

Nguyên vào quảng năm 1953, 54 Bộ giáo dục có cấp cho trường một ngân khỏan để xây nhà Hiệu trưởng như ở những trường trung học ở các tỉnh khác. Địa điểm xây nằm ở góc đường Thống Nhất và Nguyễn Tri Phương . Hồ sơ đã lập xong. chỉ chờ chữ ký của ông Giám đốc Học Chánh miền Trung thời bấy giờ là ông Đ.T.L.. Chẳng hiểu vì lý do gì ông giám đốc học chánh không chấp thuận và ngân khỏan ấy vì không dùng kịp thời nên đã được hòan trả lại cho Ngân sách quốc gia .

Tôi đến Phan Châu Trinh tiếng để thay thế thầy Hùynh Gi, một nhà giáo lão thành, bậc thầy của tôi, nhưng thật ra là để đìền vào một chỗ trống vì thầy Gi đã về hưu từ mấy tháng trước, không tới lui trường nửa. Cũng chẳng có một vị xử lý thường vụ chính thức . Mọi việc tôi phải dần dần tìm hiểu. Trong hàng ngũ giáo sư có nhiều vị có uy tín gắn bó với trường nhưng cũng có một số sẵn sàng ra đi vào miền Nam vì các vị này nghĩ rằng miền Trung chưa ổn định, Cũng có vị giảng dạy tùy tiện, tác oai tác phúc với học sinh . Chúng ta dùng thang điểm 10 trên 10 nhưng vị này đã cho học sinh 30 hay 40 điểm trên mười. Mười điểm để ghi vào sổ và số điểm còn lại dành cho nhũng lần sau .

May mắn là tình trạng chưa ổn định của trường chấm dứt mau chóng.  Những giáo chức muốn rời trường lần lượt được toại nguyện và vị giáo chức có tác phong phóng túng cũng được thuyên chuyển vào Nam. May mắn hơn số giáo sư bổ dụng đến lại đông hơn số ra đi. Trong vòng hai niên khóa trường đã có một đội ngũ giáo sư đầy đũ uy tín, có khả năng, nhiều nhiệt tình, phần đông lại còn rẩt trẻ . Chính  những giáo sư trẻ này cùng những giáo sư lão thành trước kia hòa hợp với phụ huynh học sinh đã hướng dẫn học sinh xây dựng nên cái phong cách đặc biệt của trường một thời, về sau thường được gọi là MỘT THỜI PHAN CHÂU TRINH.

PHHS3

Ban Giáo chức và Hội Phụ Huynh Học sinh chụp hình lưu niệm trong ngày lễ khai giảng  đầu niên học .

 

 HDGSPCT6236

 

Công lao của lớp giáo sư này mãi cho đến năm 1975 thật lớn lao đối với trường, Nếu không thể thay đổi tên trường Phan Châu Trinh thì cái tinh thần và phong cách đặc biệt của trường từ ban đầu cho đến 75 cũng không thể phủ nhận được. Sau 75 trường đã có một gian phòng gọi là Phòng Truyền Thống . Truyền thống gì khi trường chỉ họat động theo chế độ giáo dục xã hội chủ nghĩa chẳng bao lâu ?

Ở trên tôi có nói đến công của Phụ huynh học sinh  trường Phan Châu Trinh. Mà thật vậy, thiết nghĩ ít có hội phụ huynh học sinh nào gắn bó với trường như Hội Phụ huynh học sinh Phan Châu Trinh lúc bấy giờ . Hội cộng tác hòa hài với giáo chức và ban điều hành nhà trường, góp ý xây dựng, giúp đỡ trường về nhiều mặt : xây cất phòng ốc, yểm trợ học bổng, tiền để mua phần thưởng mỗi năm…Giáo dục của nhà trường không thể thiếu phần góp sức của phụ huynh, đó một nguyên tắc của giáo dục, Hội phụ huynh Phan Châu Trinh đã giúp đỡ cho nhà trường dễ dàng thực hiện nguyên tắc quan trọng này .Họat động của giáo sư, của phụ huynh và ban điều hành trường chỉ có ý nghĩa khi có thể trợ giúp học sinh tự mình phát trỉển những khả năng, những đức tính tôt đẹp của họ. Sự buồn vui của giáo chức, của phụ huynh do đó tùy thuộc vào thành công hay buồn vui của học sinh.

PHHS

 ( Hình và ghi chú trích trong Chuyện Một Thời Đà Nẵng /Vũ Nguyên Hồng : Nhìn kỹ góc trái tấm ảnh, bạn sẽ thấy mấy chữ “Hội P.H.H.S.P.C.T, số 19 “ có nghĩa là cái bàn học này được đánh số thứ tự 19 do Hội Phụ Huynh Học Sinh tặng nhà trường. Trước mùa khai giảng niên học mới, các em học sinh thường được phân công đem giấy nhám đến lớp đánh lại bàn học cho sạch, xóa đi những vết mực, chữ viết, nét vẽ trên bàn của năm học trước. Hoặc những em có hoa tay được thầy cô chọn trong việc kẻ danh ngôn tục ngữ để treo trong lớp như “ Tiên Học Lễ Hậu Học Văn” “ Uống Nước Nhớ Nguồn “)

PHHS2

( Hình và ghi chú trích trong Chuyện Một Thời Đà Nẵng /Vũ Nguyên Hồn g : Tấm ảnh này chụp trước Phòng Hội Giáo Sư Trường Phan Châu Trinh. Tấm mành mành ghi HPHHS có nghĩa là do Hội Phụ Huynh Học Sinh tặng .)

 

Đến bấy giờ tôi đã dạy qua nhiều trường và đã ở trong ngành cũng được mười năm nhưng chưa bao giờ làm công việc quản trị,. điều hành một trường đông học sinh như Phan Châu Trinh. Tôi thường lo lắng và suy nghĩ về nhiệm vụ mới của mình. Một điểm mà nhà giáo nào cũng biết là phải gần gũi và hiểu học sinh thì mới hướng dẫn họ đựợc. Thực hiện ý nghĩ này tôi đã nhận dạy Quốc văn ở hai lớp đệ tứ, hai lớp lớn nhất trong trường lúc bấy giờ, dù tôi không có trách nhiệm đứng lớp. Qua những giờ giảng dạy và những cơ hội tiếp xúc ngoài lớp học tôi đã hiểu biết rõ hơn những gì học sinh ước muốn. Cũng như bao nhiêu học sinh khác trên đất nước, họ muốn có những điều kiện học hành tốt, nhưng cơ hội để phát triển tài năng tiềm ẩn như thể thao, như văn nghệ …

Thật tội nghiệp cho tôi ! Suy nghĩ, lo lắng để tìm ra một sự thật đương nhiên. Học sinh ở đâu mà chẳng thiết tha như thế ! Nhưng thật ra cũng có khác biệt. Khác biệt ở điểm những ước muốn trên biểu lộ rõ rệt, mạnh mẻ và chân thành ở học sinh Phan Châu Trinh. Tôi rất vui mừng khi thấy học sinh thi đua để làm “sơ-mi” (đứng đầu) một bài thi và thường xem những thành tích đạt được không chỉ là sự cố gắng riêng tư mà do sự hướng dẫn tốt đẹp của các giáo sư .Tôi xin kể thêm một ví dụ: Năm 1961 vì một sự hiểu lầm của Nha Trung học mà trường Phan Châu Trinh chưa được mở lớp Đệ Nhất . Học sinh Phan Châu Trinh phải vào Trần Quí Cáp (Hội An) hay ra Quốc Học (Huế) để học . Cuối năm Đệ Nhất sau lúc thi Tú Tài 2, những học sinh “đem chuông đi đánh trường người “ phần đông đã có kết qủa thật tuyệt vời và họ đã dành kết quả ấy cho nhà trường, Tuy học ở trường mới nhưng họ vẫn tự xem những kết quả ấy là của trường cũ. Tôi thật vui mừng khi nghe kể lại nhưng cũng ý thức rằng những thành tích ấy là do công lao không ít của các giáo sư nơi trường mới .

Về mặt thể thao văn nghệ anh chị em học sinh Phan châu Trinh cũng đã mang đến cho riêng tôi, cho các giáo sư, phụ huynh, cho tòan trường biết bao nhiêu niềm vui, buồn. Tòan thể học sinh, giáo chức và phụ huynh đã hồi hộp theo dõi diễn biến của các trận đấu bóng rỗ, bóng tròn với sinh viên Đại học Huế, học sinh Quốc học, hay các cầu thủ học sinh miền Trung .

Cũng không thể quên được những buổi cắm trại Lăng Cô, Mỹ Thị … Vui, thật vui đó nhưng niềm lo riêng tư về thành bại, về mặt pháp lý nếu có xảy ra chuyện gì không phải là ít . Nhớ lại giữa đêm khuya ở trại Mỹ Thị bỗng nghe tiếng sáo réo rắt vẳng lên từ một lạch nước sát bên trại .Ý nghĩ đầu tiên của tôi là có một đám người nào đó có ý đồ chẳng lành .Cần tìm cách đối phó, bảo vệ học sinh . Nhưng nhẹ nhõm khi biết tiếng sáo đó là tiếng sáo của một anh “Trương Chi” thổi tặng một “Mỵ Nương” nào đó trong trại .

H10 thay Dao 4

 CAOHUYHOA

 003 campingPCT

 

HEXUA

Co Quynh

traiheMYTHI2

Những vui buồn cùng học sinh, cùng với trường kể sao cho hết, không những đối với học sinh còn ở trong trường mà ngay cả đối với những học sinh đã rời trường để tiếp tục Đai Học hay các ngành sinh họat khác .  Hãnh diện cho trường là nhiều học sinh đã đạt được nhiều thành tích xuất sắc ở các Đại học trong nước hay nước ngoài hoặc ở những ngành họat động khác…

Nhưng rồi đến lúc chia tay . Cuối năm 1962, với những lý do cho đến nay vẫn mù mịt, tôi được lệnh thuyên chuyển làm hiệu trưởng ở một trường Đệ nhị cấp khác.và sau đó ở nhiều cương vị khác nhau trong giáo dục .Tưởng duyên nợ với trường Phan Châu Trinh như đã hết. Nhưng không, sau khi rời trường một só anh chị em cựu giáo sư cùng học sinh ở trong nước hay ở nước ngòai vẫn lui tới hay thư từ thăm viếng, kể lại những vui buồn và hãnh diện đã từng là học sinh Phan Châu Trinh.

 

1d

 

Sau năm 75 cũng vậy, học sinh dù trong hòan cảnh mới vẫn nhớ tới trường . Đã có những cuộc họp Phan Châu Trinh tại Saigon với nguyên tắc không kể đến chính kiến . Những cuộc họp ấy tuy không thành công nhiều nhưng đã chứng tỏ thương trường, nhớ bạn vẫn ấp ủ trong lòng mỗi học sinh Phan Châu Trịnh. Dù cảnh ngộ đã khác. Hội Ái hữu Phan Châu Trinh trong nước, tại Saigon hình như nay cũng có nhiều họat đông nhớ về trường cũ, thầy cũ, bạn xưa  … Tôi đã biết những tin tức ấy qua các điện thư từ trong nước gửi ra .

Nhưng họat động của Hội ở nước ngoài, tại Mỹ  mới nhắc nhở tôi nhiều cái không khí “MỘT THỜI PHAN CHÂU TRINH” . Tôn trọng và phát huy chủ trương dân chủ của cụ Phan Châu Trinh là một họat động chủ yếu của hội . Kính Thầy Cô, trọng ban bè là một đặc trưng khác . Tham gia những buổi họp mặt của Hội, gặp lại học trò cũ bạn đồng nghiệp xưa tôi như đã sống lại ở một thời kỳ xa xuôi nhưng rất đẹp vì đầy tình thương yêu dưới mái trường.  

 

Nguyễn Đăng Ngọc

 

 

 

 

Tinhoctro 01

   PCT Traihe

 

 anh3 truong PCT

    

tht

 

PCTDV03

PCTDV02

PCTDV04

PCTDV06

truong1954

truong1971

truong19611962

truong1972

 .

  PCT3

             

PCT6

PCT7

 

PCT9

PCT10

 

GHI CHÚ : trích  trong Kỷ Niệm một thời Cò bay… trong sân trường Phan Châu Trinh của Thầy Trần Hữu Duận.

" Trong ý nghĩ ấy, tôi nhớ đến những bậc phụ huynh lão thành của trường PCT:

- Cố Mục sư Đoàn Văn Khánh, Cụ Đông Hải Phạm Hữu Khánh, Có Bác Sĩ Thái Can, Cố Bác Sĩ Đinh Văn Tùng, Dược sĩ Tôn Thất Dung. Các vị cựu Thị trưởng: Đại tá Lê Chí Cường, Đại tá Nguyễn Ngọc Khôi. Các vị Giám đốc Nha - Sở, Trưởng Ty, Trưởng phòng: Nguyễn Rô, Đoàn Bân, Võ Văn Triêm, Thái Trữ, Trịnh Nghiêm, Nguyễn Thân, Nguyễn Dậu… Các vị cố thân hào nhân sĩ: Trần Gia Thoại, Nguyễn Thái…

Các vị cố, cựu chủ nhân cơ sở Văn hoá, xã hội, thương mãi: Vương Duy Quỳnh, Trần Phúc Lũy, Bửu Chúc, Vĩnh Cơ, Tân Việt, Sông Việt, Sông Đà, Diệp Hải Dung…

Họ đến với hội PHHS trong nhiều vai trò xã hội khác nhau, nhưng khi làm việc Hội, họ là những phụ huynh tận tụy hợp tác lo việc học hành sinh hoạt của con em trong môi trường yên lành.

Họ đã lưu lại cho xã hội những hậu duệ hữu ích." 

Ngôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lực

 

VOCA

Tiếng Việt mình… được mượn từ tiếng Pháp rất nhiều, trừ một số người xưa thì biết, sau này, mọi người dùng theo thói quen, mà không biết chữ đó từ chữ nào mà ra.

Ví dụ : Mọi người hay nói : đi chơi “tăng ” 2 , nói vậy, chứ không hiểu chữ “tăng” đó là chữ ” temps” của tiếng Pháp, trong nghĩa là ” lần, thời gian”…
Hôm nay, mình mày mò, gom được khoảng gần 100 từ vô một bài thơ lục bát, và có mở ngoặc ,ghi chú thêm phần tiếng Pháp gốc của từ đó.
Rất mong lớp trẻ sau này, hiểu được rõ nguồn gốc từ ngữ mình dùng..gọi là chút đóng góp cho cộng đồng…người Việt mình…

 

Lục bát Việt-Pháp

Tiếng Pháp, tiếng Việt giống nhau,
Cùng nhau tìm chữ , tìm câu hàng ngày.
Mu-soa(mouchoir) là cái khăn tay,
Buya-rô(bureau) bàn giấy, để ngay văn phòng.
Savon là cục xà-bông.
Ban-công( balcon) là chỗ đứng trông trước nhà.
Xót-ti (sortir) có nghĩa: đi ra.
Ve(vert): màu xanh lá, màu là cu- lơ( couleur).
Beurre: thì có nghĩa là bơ
Ăn với ba-gét ( baguette): bánh mì đũa que.
Chìa khóa còn gọi cờ-lê ( cle’)
Đốc- tơ (docteur) : bác sĩ, kẹo là bòn-bon( bonbon)
Thịt nguội còn gọi giăm- bông ( jambon)
Quần dài, là păng-ta-lông(pantalon), đúng không?
Tóc tém: đờ- mi gạc-xông ( demi garçon).
Phòng khách có ghế sa- lông (salon)để ngồi.
Súp-lơ (choux fleur) : bông cải,bỏ nồi.
Cùi-dìa (cuillère) :thìa, muỗng,xin mời ăn cơm.!
Quả táo còn gọi: trái bơm( pomme)
Dễ thương, hay gọi mi -nhon(mignonne),hay dùng.
Coát -xăng ( croissant) là bánh hai sừng.
Cà-rem ( creme) ai thấy cũng mừng, cũng ham.
Đặt hàng còn gọi còm- măng ( commande)
Sớp-phơ ( chauffeur) tài xế, phải ngồi vô lăng (volant)
Gọi mẹ, thì gọi ma-măng ( maman)
Thường trực là pẹc- ma-năng.(permanent) nghe bà !
Lối đi qua, gọi cu-loa( couloir)
Bi-da ( billard) chơi nhớ , phải chà cục lơ.( bleu)
Người chạy xe đạp : cua-rơ( coureur)
Đồng hồ điện, gọi công-tơ( compteur) hã bồ?
Bảo vệ là gạc- đờ- co (garde de corps)
Áo khoác dài gọi măng-tô(manteau) đó mà.
Tạm biệt, nói ô- rờ -voa( au revoir)
Món gà nấu đậu, gọi là la-gu ( ragout)
Chửi nhau nói : mẹc-xà- lù ( merde salaud)
Pê-đan ( pédale) bàn đạp ,rất cần cho xe.
Màu da ta gọi màu be (beige)
Cà-vẹt ( carte verte) là giấy xe nè,hở anh?
Thắng xe, thì gọi là phanh ( frein)
Cà-vạt (cravate) nhớ thắt, để thành …đẹp trai.
Pít -xin(  piscine) là cái hồ bơi.
Búp-bê(poupée) bé thích , bé ngồi, bé mơ…
Buộc -boa (pourboire) ám chỉ tiền bo.
Tích-kê ( ticket) là vé, ri-đô ( rideau) là màn.
Táp – pi ( tapis)l à tấm thảm sàn.
Sinh nhật , nhớ mở nhảy đầm đãng-xê( danser)
Đầm dài là cái xoa rê (soirée)
Giuýp ( jupe) là váy ngắn, nhìn mê không bồ?
Xe hơi còn gọi ô tô (auto)
Đờ mi(demi): một nửa, bô( beau) là đẹp trai.
Đúp ( double) thì có nghĩa : gấp hai.
Bưu ảnh, là cạc- pốt- tan ( carte postale) có hình.
Co (corp) là để chỉ thân mình.
Đề -pa ( départ) mang nghĩa khởi hành đó nha.
Tôi thì mình xưng là moa ( moi)
Còn bạn có nghĩa là toa ( toi), là mày.
Tiếng Pháp Việt hóa, thật hay.
Nhưng không thể viết một ngày mà xong.
Chỉ mong đóng góp cộng đồng .
Soạn đi soạn lại,vẫn còn nhiều ghê..
Thủ quỹ quen gọi két -xê( caissier)
Giới thiệu nhà cửa, bởi mê tiền cò ( com: commission)
Bệnh hoạn , ai lại chẳng lo.?
Chạy mua thuốc ở tiệm gọi là phạc- ma- xi ( pharmacie)
Màu xám còn gọi màu ghi ( gris)
Cục gơm ( gomme) để xóa,viết chì để ghi.
Con gái tôi, gọi ma -phi ( ma fille)
Đét-xe ( dessert) tráng miệng, ăn khi tiệc tàn.
Nhảy đầm ,đẹp nhất điệu van ( valse).
Nhẹ nhàng thanh thoát, chàng nàng say mê.
Mỗi sáng một phin ( filtre) cà phê( café)
Bắt đầu làm việc, không hề quên đâu.
In- trô ( intro) : khúc nhạc dạo đầu.
Cam- nhông( camion) : xe tải , lơ ( bleu) : màu xanh xanh.
Tiệc tùng khui rượu sâm- banh ( champagne).
Sô- cô-la ( chocolat) đắng ,người sành thấy ngon.
La-de ( la bière ) uống giống bia lon.
Có người không thích, thì ngồi chê bai.
Bia ( bière) , bọt, chỉ nên lai rai.
Uống nhiều bia quá, hao tài,hao phăng ( Franc)
Tiền thì nhớ bỏ nhà băng ( banque)
Trai gái sắp cưới, gọi là phi-ăng-xê ( fiancé)
Mùa hè nắng gắt thấy ghê,
Nhớ đeo găng( gants) để bị chê đen thùi.
Ăn cơm, ăn xúp ( soupe), ăn nui ( nouille).
Nhớ chan nước xốt ( sauce), nhớ mùi rau thơm.
Điện tín là tê- lê- gam ( télégramme)
Vợ tôi thì nói ” ma pham” ( ma femme) của mình.
Te- ríp ( terrible) : là chuyện thất kinh.
Phi- nan ( final) : kết thúc… thôi thì… mình xì-tốp (stop) …lun..

Sài Gòn xưa

Nguồn: Nghiệp đoàn sinh viên Việt Nam

 

Tổng hợp các từ mượn tiếng Pháp trong tiếng Việt

  • Affiche: tấm áp-phích
  • Allez hop !:  a-lê-hấp (làm ngay)
  • Armé: ạc-mê : (trong xi-măng ạc-mê: xi-măng cốt sắt)
  • As: ách:  (tên con bài tây)
  • As de carreau: ách rô  : (tên con bài)
  • As de pique: ách bích (tên con bài)
  • Auto ô-tô:  (xe hơi)
  • Autobus : ô-tô-buýt (xe buýt)
  • Autoclave : ô-tô-cla-vơ (nồi áp suất)
  • Acide – axit
  • Antenne - ăng ten
  • Balcon : ban-công (bao lơn)
  • Ballot:  ba-lô (túi đeo sau lưng)
  • Beret: bê-rê (mũ vải không vành)
  • Beurre:bơ (bơ sữa; quả avocado)
  • Bidon:bi-đông (bình nước nhỏ để mang theo mình khi đi xa)
  • Bille:bi (viên đạn tròn)
  • Biscuit : bích-quy (bánh nướng 2 lần)
  • Bombe:bom (trái nổ lớn)
  • Bordeaux:bọt-đô (rượu nho)
  • Botte:bốt (giày ống cao của lính)
  • Boucle:búc (khoen cài dây nịt)
  • Bougie:bu-gi (nến, nến điện)
  • Boulon:bù-lon, bu-lông (con ốc)
  • Bus:buýt (xe chuyên chở công cộng)
  • Billard - bi da
  • Cable:cáp (dây thừng bằng kim loại)
  • Cacao: ca-cao
  • Café: cà-phê (hạt của cây caféier, mùi rất thơm sau khi rang sấy)
  • Canot:ca-nô (loại thuyền nhẹ)
  • Canon: cà-nông (súng lớn)
  • Car:  ca (chiếc xe, xe ca)
  • Caramel:ca-ra-men (đường nung trở màu)
  • Carbone: cạc-bon (chất than)
  • Cari: cà-ry (món ăn gốc ấn độ)
  • Carreau:  ca-rô (hình ô vuông, tên con bài Ù)
  • Carotte:  cà-rốt (củ cải đỏ)
  • Carte:  verte cạc-vẹc (thẻ xanh, bằng lái xe)
  • Carte:  visite cạc-vi-zít (danh thiếp)
  • Cas:  ca (trường hợp)
  • Caoutchouc - cao su
  • Chemise - áo sơ mi
  • Cravate - cà vạt
  • Cantine - căng tin
  • Cerise:  sơ-ri (trái)
  • Chaîne: sên (dây xích xe đạp, xe gắn máy)
  • Champagne:  săm-banh (tên rượu của Pháp)
  • Chef: xếp (người chỉ huy)
  • Chemise:  sơ-mi (áo)
  • Choc:"sốc" (chấn động mạnh)
  • Chocolat:sô-cô-la (kẹo chế từ bơ ca cao)
  • Chou à la crème:  su kem (bánh su có nhân kem)
  • Chou-fleur:  súp-lơ (bông cải trắng)
  • Chou-rave su hào (loài rau củ)
  • Cigare : xì-gà (thuốc cuộn bằng lá thuốc)
  • Ciment :  xi-măng
  • Ciné : xi-nê (chiếu bóng)
  • Cirque : xiếc, xiệc
  • Coffre : cốp (tủ, ngăn tủ, thùng xe)
  • Cognac :cô-nhắc (tên rượu của Pháp)
  • Corset : coóc-sê (áo bó ngực và bụng của phụ nữ)
  • Coupure : cúp (sự cắt điện, nước)
  • Courreur : cua-rơ (người chạy đua)
  • Courroie : cu-roa (đai chuyền)
  • Crêpe : kẹp (tên một loại bánh ngọt có nhiều lớp bột được cán mỏng)
  • Cravate : cà-vạt
  • Crème : kem
  • Cresson : xà-lách-son
  • Cyclo : xích-lô (loại xe chuyên chở khách)
  • Cylindre : xy-lanh (nòng máy nổ)
  • Dame : đầm (đàn bà Pháp, cũng để chỉ tên con bài nhưng tiếng Pháp là reine)
  • Douille : đuôi (bộ phận để gắn bóng đèn)
  • Drap : drap (vải trải giường)
  • écho : ê-cô (tiếng vang)
  • écrou : ê-cu (con tán để vặn vào bù-lon)
  • Essence : xăng (nhiên liệu lỏng)
  • Epinard - rau bina
  • Fiche : phích (vật để cắm điện)
  • Filtre : phin (vật để lọc lấy nước, bỏ bã)
  • Film - phim
  • Flan - bánh flan
  • Galant: ga-lăng 
  • Gant: găng (bao tay)
  • Guitare - đàn guitar
  • Garage : ga-ra (nhà để xe)
  • Garde-manger : gạc-măn-giê (tủ đựng đồ ăn)
  • Gare : ga (nhà ga, nơi tàu hỏa đậu)
  • Gaz : ga (hơi đốt)
  • Gomme : gôm (cục tẩy)
  • Goût : "gu" (sở thích)
  • Guidon : ghi-đông (tay lái xe hai bánh)
  • Judo : juy-đô (nhu đạo)
  • Laine :len (sợi làm từ lông cừu)
  • Légumes : lê-ghim (rau)
  • Litre : lít
  • Loto : lô-tô (trò chơi)
  • Loupe : kính lúp (kính phóng đại)
  • Maillot: may-ô (áo thun)
  • Mangoustan: măng-cụt (quả)
  • Marque: mác (thương hiệu; bộ vó)
  • Mètre: mét (thước)
  • Mignon: mi-nhon (dễ thương)
  • Molette: mỏ-lết (kìm vạn năng)
  • Mousse: mút (vật mềm và đàn hồi được)
  • Mouchoir: mùi-xoa (khăn tay)
  • Médaillon - mề đay
  • Niveau : ni-vô (ống thủy chuẩn)
  • Nœud : nơ (cái gút thắt bằng vải)
  • Note: nốt (chấm dùng trong âm nhạc)
  • Nouille: nui (thức ăn bằng bột mì, gốc ý)
  • Oeuf au plat : ốp-la (món trứng chiên)
  • Olive - ôliu
  • Pâté : pa-tê (thịt hoặc gan bằm và hấp)
  • Pâté chaud : pa-tê-sô (loại bánh có nhân thịt)
  • Pédale : pê-đan (bàn đạp)
  • Pédé : pê-đê (người đồng tính luyến ái)
  • Phare: pha (đèn rọi sáng ra xa)
  • Pile: pin (nguồn điện một chiều)
  • Pique: bích (tên con bài tây ở)
  • Piston: pít-tông (vòng để nén hơi)
  • Pompe: bơm (đồ để thổi hơi)
  • Porte-bagage: bọt-ba-ga (yên phụ để chở đồ)
  • Portefeuille : bóp-phơi (cái bóp, cái ví)
  • Pourboire : buốc-boa (tiền bo, tiền tip)
  • Pile électrique - pin điện
  • Poupée - búp bê
  • Queue : cơ (cây gậy để thụt billard)
  • Quinine : ký-ninh (thuốc để trị bệnh sốt rét)
  • Ragoût : ra-gu (món thịt nấu với rau, củ)
  • Reçu : rờ-xuy (tờ biên nhận)
  • Remorque : rờ-mọt (xe được kéo bằng một xe khác)
  • Rhum : rum (tên loại rượu nho)
  • Rideau : ri-đô (tấm màn)
  • Robinet : rô-bi-nê (vòi nước, do Robin, người đã sáng chế)
  • Rôtie : rô-ti (món thịt nướng hoặc quay)
  • Radio - radio
  • Sabot : sa-bô (guốc)
  • Sacoche : xà-cột (túi vải nhỏ để đựng đồ nghề, thường máng sau yên xe)
  • Salon : sa-lông (phòng để tiếp khách)
  • Sandale : săng-đan (loại giày da hở chân)
  • Sapotier : sa-pô-chê (cây, trái hồng xiêm)
  • Sauce : xốt (nước xốt)
  • Saucisse : xúc-xích (lạp xưởng của Tây)
  • Savon : xà-bông, xà-phòng
  • Seau : sô (vật để đựng nước)
  • Seringue: sơ-ranh (ống tiêm)
  • Signal(er) : si-nhan (ra dấu)
  • Sirop : xi-rô (nước đường dạng sệt)
  • Slip : xì-líp (quần lót)
  • Sofa : sô-pha (loại ghế nằm được)
  • Sou : xu (đồng xu)
  • Soude : xút (chất kiềm soda NaOH)
  • Soupape : xú-bắp (van để chặn và cho thoát hơi trong náy nổ)
  • Soupe : xúp (nước canh)
  • Salade - xà lách
  • Sauce - nước xốt
  • Tank : Tang (xe thiết giáp)
  • Tasse : tách (vật để đựng nước uống)
  • Taxi:  tắc-xi (loại xe chuyên chở khách)
  • Tension : artérielle tăng-siông (huyết áp)
  • Timbre : tem (để dán nơi bì thư)
  • Tôle : tôn (tấm kim loại để lợp nhà)
  • Tonneau : ton-nô (thùng gỗ để đựng rượu)
  • Tout de suite : tút-suỵt (ngay lập tức)
  • Timbre - tem
  • Tournevis - tuốc nơ vít
  • Vaccin :vắc-xanh (thuốc chủng ngừa)
  • Vagabond :ma-cà-bông (người lang thang)
  • Valise :va-li (cặp da để đựng quần áo)
  • Valve :van (khóa đường ống)
  • Vanilla: va-ni (trái của cây vanillier, có mùi thơm dùng để làm bánh)
  • Veste :vét (áo vét)
  • Veston: vét-tông (loại áo vét ngắn)
  • Vin : vang (rượu nho)
  • Vis : con vít, con ốc
  • Yaourt : da-ua (món sữa chua)

nguồn : 176 Từ Mượn Tiếng Pháp Trong Tiếng Việt - CAP FRANCE

Ngôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lựcNgôi sao không hiệu lực

 
 

Brazil báo cáo 82.266 ca tử vong vì Covid-19 trong tháng 4, mức cao nhất hàng tháng, khi quốc gia Nam Mỹ vẫn quay cuồng trong đại dịch.

Với hơn 82.000 ca tử vong trong tháng 4, tổng số người chết vì Covid-19 ở Brazil lên hơn 404.000. Quốc gia Nam Mỹ cũng là một trong những nước có tỷ lệ tử vong cao nhất thế giới, với 189 ca/100.000 dân.

Đây là tháng thứ hai liên tiếp Brazil báo cáo số ca tử vong cao kỷ lục, sau khi ghi nhận 66.573 người chết trong tháng 3.

Bệnh viện ở nhiều khu vực của Brazil đối mặt nguy cơ sụp đổ, dù nhiều chuyên gia cho rằng đỉnh điểm của đợt bùng phát mới dường như đã qua. Chuyên gia nói các ca nhiễm nCoV tăng mạnh một phần do biến chủng mới lần đầu xuất hiện ở Manaus tháng 12 năm ngoái.

Một người đàn ông đào mộ tượng trưng để biểu tình phản đối cách xử lý Covid-19 của chính phủ ở bãi biển Copacabana, thành phố Rio de Janeiro tháng trước. Ảnh: AFP.

Một người đàn ông đào mộ tượng trưng để biểu tình phản đối cách xử lý Covid-19 của chính phủ ở bãi biển Copacabana, thành phố Rio de Janeiro tháng trước. Ảnh: AFP.

Được gọi là P1, biến chủng có thể khiến những người từng nhiễm chủng ban đầu tái nhiễm và có khả năng lây lan nhanh hơn.

29 triệu người Brazil đã được tiêm ít nhất một mũi vaccine Covid-19, tương đương hơn 13% dân số. Khoảng 13 triệu người đã hoàn thành chương trình tiêm chủng. Nhưng các thành phố ở 14 trong 27 bang của Brazil đã phải dừng tiêm mũi thứ hai vì thiếu nguồn cung.

Quốc gia 212 triệu dân đang chạy đua để có thêm nguồn vaccine, trong khi Thượng viện mở cuộc điều tra liệu chính quyền Tổng thống Jair Bolsonaro có khiến cuộc khủng hoảng y tế nước này trầm trọng hơn.

Tổng thống Bolsonaro nhiều lần đánh giá thấp mức độ nguy hiểm của nCoV, phản đối các biện pháp hạn chế nhằm kiểm soát Covid-19 và từ chối một số lời đề nghị cung cấp vaccine. Ông bảo vệ cách ứng phó Covid-19 của mình, nói với người ủng hộ rằng "tôi không làm sai bất kỳ điều gì".

Thanh Tâm (Theo AFP)

Những bài mới đăng

Mùa Thu Lá Bay