Thi sĩ Vũ hoàng Chương đã dạy dỗ những bồi bút CS thế nào?

Bạn đánh giá: 5 / 5

Ngôi sao có hiệu lựcNgôi sao có hiệu lựcNgôi sao có hiệu lựcNgôi sao có hiệu lựcNgôi sao có hiệu lực
 

 

Vu Hoang Chuong

THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG

Đã dạy dỗ những bồi bút CS thế nào là

THI CA CỦA MỘT THỜI VÀ THI CA CỦA MUÔN ĐỜI

LGT: Câu chuyện sưu tầm kể lại dưới đây của Sông Lô về giai thoại ( Thi sĩ Vũ Hoàng Chương) sau 1975 đã bị nhóm Thi sĩ tiền chiến theo Cộng sản Bắc Việt như : Tố Hữu , Xuân Diệu , Huy Cận , Chế Lan Viên đã đạo diễn  hai tên bộ hạ: Thanh Nghị, một văn công "gộc" của MTGPMN và văn nô Hoài Thanh đã cưỡng bách Thi sĩ VHC lên tiếng thẩm định 2 câu thơ lục bát trứ danh "nô bộc tôi tớ Xì-Ta-Lin" của Tố Hữu trong bài " Đời Đời Nhớ Ông" :
 
Số là sau năm 1975 khi Sài Gòn đã bị đổi tên thành thành phố HCM, Tố Hữu lúc bấy giờ là quan văn nghệ từ trung ương ngoài Bắc vào Nam có ghé đến nhà Thanh Nghị, một quan Văn Hoá vừa từ trong bưng ra, chiếm được một ngôi biệt thự xinh xắn ở góc đường Thống Nhất và Hai Bà Trưng. Ông này cũng như tôi thuở "vụng dại", xem Tố Hữu là thần tượng của mình .
Để làm hài lòng “thần tượng” và là xếp lớn, Thanh Nghị liền tụ tập một số những nhà thơ lão thành tiền chiến tên tuổi, tổ chức một đêm "họp văn nghệ", nói là để đánh giá sơ khởi thi ca cả hai miền như là tiền đề cho sự thống nhất văn học sau này. Nhưng mục đích chính là để "hóa giải", để "thẩm định" lại, cho đúng đắn hai câu thơ “bất hủ” của Tố Hữu đã thường xuyên bị "bia miệng" trong "dân gian" xách mé châm chọc khi nghe tin ông Stalin qua đời:

Thương cha, thương mẹ, thương chồng,
Thương người thương một thương ông thương mười

Theo tác giả Vân Xưa trong bài "Thơ Tố Hữu" đăng trên Quê Mẹ số 63/64 có kể rằng:

Thanh Nghị trình bày ý kiến của mình trước và cho rằng châm biếm vì ác ý hơn là vì nghệ thuật đúng đắn. Hai câu lục bát này thật ra không thể chê vào đâu được. Nó vừa khẩu chiếm vừa xuất thần mà khẩu chiếm và xuất thần là những tiêu chuẩn cao nhất, định giá trị thi ca VN. Nó đồng thời thể hiện truyền thống thi ca bình dân nước ta, qua hai vần lục bát thật thoát sáo, vừa giữ vẹn hồn tính một ca dao vừa đưa loại thi ca giọng quê lên ngang giọng bác học.
Với vỏn vẹn có 14 chữ, trong đó từ "thương" bẩy lần láy lại và còn 7 chữ kia "cha, mẹ, chồng, mình, ông, một và mười" đều là những từ không có mấy thi tính. Thế mà Tố Hữu đã ghép lại và khi ta ngâm lên thì thấy rõ ràng thần tính từ 14 chữ (đúng ra là 8 từ) ấy cuồn cuộn thoát ra, thâm nhập hồn người thưởng ngoạn, khiến hồn tính con người rung động như tơ đồng trên phím khi nhạc sĩ vuốt vào giây, thật là hết ý.”
Thanh Nghị vốn khéo ăn khéo nói, lại thao thao bất tuyệt nên cử tọa bị lôi cuốn theo mà "đồng thanh tương ứng" nhận cách ông thẩm định hai câu thơ của Tố Hữu là xác đáng\. Thế rồi có ai đó yêu cầu các thi sĩ có mặt ở "hiện trường" xác minh thẩm định trên, dựa theo những câu thơ đắc ý của mỗi người.

Lấy những vần ít bác học mà so, Xuân Diệu đem hai câu mình đắc ý trong bài Buồn Trăng,
Ngẩng đầu ngóng mãi chưa xong nhớ
Hoa bưởi thơm rồi, đêm đã khuya

Mà cho rằng, không thể truyền cảm sâu sắc hơn hai câu thơ của Tố Hữu được

Huy Cận thì đọc hai câu thơ trong bài Áo Trắng mà mình cho là tâm đắc,
Em lùa gió biếc vào trong tóc
Thổi lại phòng anh cả núi non .

Để phải nhận rằng, hai câu thơ của Tố Hữu gây xúc động mạnh hơn, dồn dập hơn trong khu vực tình cảm mỗi bên, khi muốn dùng thi ca để tác động tâm hồn yêu thơ .

Chế Lan Viên không muốn nhắc đến lũ "Ma Hời" của mình mà đưa hai câu cuối trong bài "Mùa Xuân Chín" của Hàn Mặc Tử sáng tác lúc còn là học sinh trung học ở Quy Nhơn mà ông cho là tuyệt bút,
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang

Để so với hai câu của Tố Hữu, họ Chế cho rằng hai bên đều là thơ hay ở mức độ cao, cách phổ diễn niềm đau trước cuộc tình bỗng dứt, một bên vì dang dở, một bên vì tử biệt sinh ly. Nhưng phải chịu là hai câu của Tố Hữu gần hồn tính bình dân, hai câu của Hàn Mặc Tử không sánh kịp .

Các nhà thơ khác không ai dám "cầm đèn chạy trước ô tô" hoặc dây vào qua cách dùng thơ của mình để mổ xẻ và so sánh như các bậc thi bá nêu trên, có thể là vì tự trọng, có thể là sợ bị mang hoạ vào thân hay cũng có thể là cả hai, nhưng nói chung, hầu như đa số đều tán đồng sự thẩm định như đã nêu .

Hoài Thanh tác giả "Thi Nhân VN" mà Hà Sĩ Phu sau này có vẽ chân dung của ông như sau:

Vị nghệ thuật nửa cuộc đời
Nửa đời sau lại vị người ngồi trên
Nét này vẽ bác Lan Viên
Bác Hữu, bác Cận hay riêng bác Hoài
Chân dung các bác ngời ngời
Chém cha cái nửa phần đời phía sau
Cuộc đời hai nửa vì đâu
Nửa say quỷ kế nửa đau nhân tình

không chính thức có làm thơ nên không có thơ được quyền khỏi mổ xẻ, "hú hồn", tuy vậy, ai cũng hướng về ông như muốn ông cùng nhập cuộc. Không hiểu Hoài Thanh có ý né hay không, nhưng chưa ai kịp lên tiếng mời ông thì ông đã vội mời thi sĩ Vũ Hoàng Chương thẩm định.

Nhà thơ họ Vũ vốn người không mấy cân quắc, lại ăn nói ôn tồn nhỏ nhẹ, nãy giờ chìm lỉm dưới “làn kinh truyện” tuôn từ các bậc thi bá đắc thời, không ai nhìn thấy ông .
Hoài Thanh gọi đến nhà thơ Vũ Hoàng Chương có lẽ để né tránh thật nên đề nghị là phải có một nhà thơ của Miền Nam góp ý. Nhưng chắc hẳn không muốn chờ một ánh sáng hay một tia chớp "đột xuất" nào.

image56
Ông Vũ Hoàng Chương biết thế nên cứ từ tạ, nhưng rồi Thanh Nghị "mớm mồi" ép thêm vào mà trong bụng tin rằng con người Vũ Hoàng Chương hiền hòa, ắt không sợ xảy ra cảnh "cũng gươm, cũng mác, cũng anh hùng" như ông Hồ đối đáp một mình với đức Trần Hưng Đạo . Nhưng ai đã biết ông Vũ Hoàng Chương, ắt phải biết cái đanh thép bên trong tấm thân nhỏ bé ọp ẹp của ông. Đôi ba lần từ tạ không được, đành nhảy vào "hò kéo pháo", nhưng trước khi vào cuộc hò, Vũ đã yêu cầu cử tọa thông cảm nếu có chỗ nào thất thố vì ông sợ rằng những gì ông muốn trình bày sẽ làm tổn thương cái "sáng giá" của đêm họp "văn nghệ đặc biệt" này, bởi "tất tần tật" đã được các thi bá đương thời thẩm định rồi.

Sau đây là lời của Vũ Hoàng Chương do người có mặt đêm hôm ấy thuật lại .

"Thi nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động vào tâm cảnh của mình, để hồn trí phản ứng theo thất tình con người mà vận dụng thi tứ phổ diễn nên lời một tình tự nào đó, rồi đãi lọc thành thơ. Sự vận dụng càng xuất thần, việc phổ diễn càng khẩu chiếm, thơ càng có giá trị cao. Cảm xúc trước cái chết của một thần tượng được "đóng khung" tự bao giờ trong tâm cảnh mình, Tố Hữu đã xuất thần vận dụng nỗi u hoài, phổ diễn nên những lời thơ thật khẩu chiếm, rồi dùng những từ thật tầm thường, ít thi tính, đãi lọc nỗi u hoài của mình thành một tiếng nấc rất tự nhiên. Đạt đến một mức độ điêu luyện cao. Lời thẩm định của Thanh Nghị thật xác đáng, tôi chịu .

Nhưng thơ không phải chỉ có thế. Xuất thần khẩu chiếm thuộc phạm vi kỹ thuật, dù đã có thi hứng phần nào, và nếu chỉ có thế thì thơ chỉ có khéo mà thôi, chưa gọi là đạt. Tức chưa phải là hay. Thơ hay vừa phải khéo như thế vừa phải đạt thật sự. Thi hứng nằm trong sự thực của tình tự phổ diễn nên lời. Tình tự mà không thực, lời thơ thành gượng ép. Vấn đề của thơ nói cho đến nơi, là ở đây, có nghĩa là thơ phải thực.

Tố Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng một bà mẹ VN, muốn bà dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy con trẻ Việt Nam yêu cụ Stalin thay cho mình. Cũng chẳng sao vì đó cũng là một kỹ thuật của thi ca, nhưng trước hết phải biết bà mẹ Việt Nam đó có cùng tâm cảnh với mình không, có chung một mối cảm xúc hay không ?

Tôi biết chắc là không. Bởi trong đoạn trên của hai câu lục bát này trong bài "Đời Đời Nhớ Ông", Tố Hữu đã đặt vào lời bà mẹ hai câu:

Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin

Chắc chắn là không có một bà mẹ Việt Nam nào, kể cả bà Tố Hữu mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành, cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực hai câu ta đang mổ xẻ .

 Một tình tự không chân thực, dù được luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ hay mà chỉ là thơ khéo làm, đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thơ thợ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là nếu có đòi hỏi cho một tuyên truyền nào đó. Tố Hữu nếu khóc lấy, có lẽ là khóc thực, khóc một mình. Những bà mẹ Việt Nam trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm”.

Vu Hoang Chuong Rồi thi sĩ Vũ Hoàng Chương kết luận, hai câu lục bát của Tố Hữu, theo ý mình, chỉ là những lời thơ khéo, không thể so sánh với những câu thơ của những nhà thơ vừa nêu ở trên, bản chất khác hẳn" .

Lời thẩm định trên của thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã gây sôi nổi, sôi nổi vì bất bình nhiều hơn là vì tranh luận. Một vài cử tọa muốn đẩy họ Vũ đến chỗ bí, để hóa giải thẩm định ngược dòng của ông. Họ đã yêu cầu ông nói về thơ và sự thực mà ông đã đưa ra để chê Tố Hữu và cùng nghĩ rằng Vũ Hoàng Chương khó lòng mà đưa ra một luận cứ vững vàng được. Nhưng thi sĩ Vũ Hoàng Chương cứ vẫn ôn tồn "giải trình" tiếp:

"Thơ vốn là mộng, là tưởng tượng, là tách rời thực tế, nhưng mộng trên những tình tự thực. Không chấp nhận loại tình tự hư hoang. Có khoa học giả tưởng, không có thơ giả tưởng, nói thơ là nói đến thế giới huyễn tưởng, huyễn tưởng trên sự thực để thăng hoa sự thực, chứ không bất chấp, không chối bỏ sự thực. Nhà thơ không được láo, nhà thơ phải thực nhưng thoát sáo sự thực thành mộng để đưa hồn tính người yêu thơ vươn lên sự thực muôn đời đạt đến chân lý cuộc sống. Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy.

Tôi xin nhắc: Sự thực muôn đời là cơ sở duy nhất của thi ca. Vì có sự thực cho riêng một người, có sự thực cho riêng một thời, nhưng vẫn có sự thực cho muôn đời, sự thực bao quát không gian, thời gian, chân lý cuộc sống."

*

Hình như những ngày sau "cái đêm hôm ấy" Vũ Hoàng Chương đã bị bắt đi học tập và chết khi được tha về không bao lâu. Có người nói Vũ Hoàng Chương là người dại, nhưng cũng có người nói Vũ Hoàng chương là người can đảm . Theo tôi ông là một con người tự do, con người tự do không phải quỳ lụy trước bất cứ một áp lực nào, con người tự do có đức tính tự trọng cao và là con người can đảm . Như Phùng Quán nói:
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chìu
Cũng không bảo yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không bảo ghét thành yêu .

Đó là lý do vì sao những bài thơ tiền chiến của Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên thì được giới yêu thơ yêu thích cho dù chỉ là dăm ba câu, còn những bài thơ sau này của cả ba người này rất ít người đời nhắc đến. Phải chăng cái thực của muôn đời khác xa so với cái thực của một thời là vậy ? Cái thực một thời của các ông thi sĩ thời cộng sản là cố gượng, cố ép thi ca của mình lặn hụp trong dòng “cách mặng” mất cả tính người. Tiếc thật ...như những vần thơ “cái thực của muôn đời” của thi sĩ Vũ Hoàng Chương sau đây:

Biển khổ mênh mông sóng ngập bờ
Khách trần chèo một mái thuyền chơi
Thuyền ai ngược sóng ai xuôi sóng
Cũng ở trong cùng biển khổ thôi .
(Vũ Hoàng Chương)


Đình kèm sau đây là toàn bài thơ Tố Hữu khóc Stalin và “cái thực của một thời” mà thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã nhận định về thi ca cộng sản ở trên.

Đời đời nhớ Ông

Bữa trước mẹ cho con xem ảnh
Ông Stalin bên cạnh nhi đồng
Áo Ông trắng giữa mây hồng
Mắt Ông hiền hậu, miệng Ông mỉm cười
Stalin! Stalin!
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin!
Hôm qua loa gọi ngoài đồng
Tiếng loa xé ruột xé lòng biết bao
Làng trên xóm dưới xôn xao
Làm sao, Ông đã... làm sao, mất rồi!
Ông Stalin ơi, Ông Stalin ơi!
Hỡi ơi, Ông mất! đất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương Ông thương mười

Yêu con yêu nước yêu nòi
Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu!
Ngày xưa khô héo quạnh hiu
Có người mới có ít nhiều vui tươi
Ngày xưa đói rách tơi bời
Có người mới có được nồi cơm no
Ngày xưa cùm kẹp dày vò
Có người mới có tự do tháng ngày
Ngày mai dân có ruộng cày
Ngày mai độc lập ơn này nhớ ai
Ơn này nhớ để hai vai
Một vai ơn Bác một vai ơn Người
Con còn bé dại con ơi
Mai sau con nhé trọn đời nhớ Ông!
Thương Ông mẹ nguyện trong lòng
Yêu làng, yêu nước, yêu chồng, yêu con
Ông dù đã khuất không còn
Chân Ông còn mãi dấu son trên đường
Trên đường quê sáng tinh sương
Hôm nay nghi ngút khói hương xóm làng
Ngàn tay trắng những băng tang
Nối liền khúc ruột nhớ thương đời đời.

(5-1953)
 

Mùa Thu Lá Bay